1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học

81 20 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 81
Dung lượng 610,91 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (7)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (8)
  • 3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu (9)
  • 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu (9)
  • 5. Cơ cấu của luận văn (10)
  • CHƯƠNG 1: ĐĂC ĐIỂM NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI GIAI ĐOẠN 2007-2011 (11)
    • 1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội dưới góc độ tội phạm học và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội (11)
      • 1.1.1 Khái niệm nhân thân người phạm tội dưới góc độ tội phạm học (11)
      • 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới góc độ tội phạm học (12)
    • 1.2. Thông số về số vụ và số người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2007-2011 (13)
    • 1.3. Đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2007-2011 (18)
      • 1.3.1. Đặc điểm sinh học của người phạm tội (18)
      • 1.3.2. Đặc điểm về văn hoá, xã hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình và nơi cư trú của người phạm tội (0)
      • 1.3.3. Đặc điểm về tâm lí, thói quen, nhận thức của người phạm tội (31)
    • 1.4. Đặc điểm liên quan đến mối quan hệ giữa người phạm tội và nạn nhân (34)
  • CHƯƠNG 2: NGUYÊN NHÂN CỦA TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI GIAI ĐOẠN 2007-2011 CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI, DỰ BÁO VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA ĐỐI VỚI TỘI PHẠM NÀY (39)
    • 2.1.3. Nguyên nhân liên quan đến đặc điểm tâm lí, thói quen, nhận thức của người phạm tội (47)
    • 2.2. Dự báo và các biện pháp phòng ngừa có liên quan đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (53)
      • 2.2.1 Dự báo tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh có ảnh hưởng tới tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em (0)
      • 2.2.2 Dự báo về tình hình tội phạm liên quan đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em ở Đồng Nai trong thời gian tới (58)
        • 2.2.2.1 Dự báo về tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em (59)
        • 2.2.2.2 Dự báo về đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em (59)
      • 2.2.3. Các biện pháp phòng ngừa có liên quan đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (62)
        • 2.2.3.1. Nhóm biện pháp phòng ngừa liên quan đến đặc điểm sinh học của người phạm tội (62)
        • 2.2.3.2. Nhóm biện pháp phòng ngừa liên quan đến đặc điểm văn hóa, xã hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình và nơi cư trú của người phạm tội (64)
        • 2.2.3.3 Nhóm biện pháp phòng ngừa liên quan đến đặc điểm tâm lí, thói quen, nhận thức của người phạm tội hiếp dâm trẻ em (67)
  • PHỤ LỤC (77)

Nội dung

Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu được thực hiện có liên quan đến đề tài Cụ thể như:

- Sách chuyên khảo: “Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại tình

Trong báo cáo tổng kết công tác năm 2011 của Công an tỉnh Đồng Nai, tài liệu "Dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai" của TS Đồng Xuân Thọ, xuất bản bởi Nxb Công an nhân dân vào năm 2008, đã được đề cập.

Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Quốc Khánh, Trường đại học Cảnh sát nhân dân, năm 2010, nghiên cứu đặc điểm nhân thân của người chưa thành niên phạm tội nhằm phục vụ cho hoạt động điều tra vụ án tại tỉnh Đồng Nai Nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của thanh thiếu niên, từ đó hỗ trợ trong việc cải thiện quy trình điều tra và xử lý các vụ án liên quan.

- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Đấu tranh phòng, chống tội phạm lạm dụng tình dục trẻ em ở Sóc trăng” của tác giả Thái Rết – Trường Đại học

Luật TP Hồ Chí Minh, năm 2011

Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào về nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai, đặc biệt dưới góc độ chuyên ngành tội phạm học Việc thiếu hụt này gây trở ngại cho công tác phòng ngừa tội phạm hiếp dâm trẻ em trong khu vực.

Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai từ góc độ tội phạm học nhằm xác định nguyên nhân dẫn đến tội phạm này Qua đó, đề xuất các biện pháp hiệu quả để nâng cao công tác phòng ngừa tội hiếp dâm trẻ em trong khu vực.

Luận văn phân tích đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn 2007-2023, từ góc độ tội phạm học Nghiên cứu này nhằm hiểu rõ hơn về nguyên nhân và đặc điểm tâm lý, xã hội của các đối tượng phạm tội, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

- Trong luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:

+ Phương pháp điều tra xã hội học;

+ Phương pháp mô tả bằng bảng thống kê và biểu đồ;

+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.

Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn gồm hai chương:

Chương 1 Đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2007-2011

Chương 2 phân tích nguyên nhân gây ra tội phạm hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn 2007-2011, tập trung vào đặc điểm nhân thân của người phạm tội Bài viết cũng đưa ra dự báo về tình hình tội phạm và đề xuất các biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhằm giảm thiểu tình trạng này.

ĐĂC ĐIỂM NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI GIAI ĐOẠN 2007-2011

Khái niệm nhân thân người phạm tội dưới góc độ tội phạm học và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội

1.1.1 Khái niệm nhân thân người phạm tội dưới góc độ tội phạm học

Nhân thân là khái niệm đặc trưng thể hiện bản chất của con người, một thực thể tự nhiên và xã hội Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, con người được xem như một phạm trù xã hội - lịch sử, là sản phẩm của thời đại và các điều kiện lịch sử cụ thể Mỗi thời đại tạo ra những mẫu người khác nhau, nhưng bản chất con người, như Mác đã khẳng định, là tổng hòa của tất cả các mối quan hệ xã hội.

Người phạm tội, dù có thực hiện hành vi nghiêm trọng, vẫn là con người trong xã hội Theo quan điểm của C.Mác, nhà nước cần nhận thức rằng kẻ phạm tội cũng là một tế bào sống của xã hội, với trái tim và dòng máu đang chảy Do đó, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là nghiên cứu con người cụ thể, là chủ thể của tội phạm.

Khi phân tích nhân thân người phạm tội từ góc độ tội phạm học, chúng ta cần xem xét các đặc điểm đặc trưng như sinh học, tâm lý và xã hội Những đặc điểm này, bao gồm giới tính, độ tuổi, sở thích cá nhân và ý thức chấp hành, không chỉ giúp giải thích nguyên nhân của tội phạm mà còn cung cấp cơ sở để đề xuất các biện pháp phòng ngừa hiệu quả.

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012) đã xuất bản giáo trình tội phạm học, trong đó đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật cá nhân, trình độ văn hóa và nghề nghiệp Nội dung này nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố cá nhân trong việc hiểu và áp dụng pháp luật.

Nhân thân người phạm tội, theo tội phạm học, được định nghĩa là tổng hợp các đặc điểm sinh học, tâm lý và xã hội của người đó Những đặc điểm này kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh khách quan bên ngoài đã dẫn đến hành vi phạm tội của họ.

Có thể phân biệt nhân thân người phạm tội dưới góc độ tội phạm học và nhân thân người phạm tội dưới góc độ luật hình sự như sau:

Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự là tổng hợp các đặc điểm riêng biệt của họ, ảnh hưởng đến việc xác định trách nhiệm hình sự Nghiên cứu nhân thân này có vai trò quan trọng trong việc định tội danh, xác định khung hình phạt và quyết định hình phạt phù hợp.

Nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong tội phạm học khác với nghiên cứu trong luật hình sự chủ yếu ở mục đích nghiên cứu Tội phạm học tập trung vào việc làm rõ nguyên nhân phát sinh tội phạm và xây dựng biện pháp phòng ngừa dựa trên đặc điểm nhân thân Ngoài ra, tội phạm học còn phân tích quá trình hình thành các đặc điểm sai lệch trong nhân cách, nhằm khám phá nguyên nhân sâu xa từ môi trường xã hội Từ đó, đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội phạm, giáo dục cải tạo người phạm tội và ngăn ngừa tái phạm.

1.1.2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới góc độ tội phạm học

Nghiên cứu để xác định những đặc điểm trong nhân thân người phạm tội phải dựa vào những đặc điểm đặc trưng được hình thành từ những

Nhân thân người phạm tội là một hệ thống các đặc điểm sinh học, tâm lý và xã hội, có mối liên hệ chặt chẽ và không thể tách rời Những đặc điểm này có thể ảnh hưởng đến hành vi phạm tội và sự phát sinh tội phạm, với mức độ ảnh hưởng khác nhau tùy thuộc vào từng cá nhân và môi trường sống của họ Môi trường sống bao gồm cả yếu tố tích cực và tiêu cực, ảnh hưởng đến nhận thức cá nhân, từ đó hình thành hệ thống giá trị văn hóa và quan niệm sống, thể hiện qua các hành vi cụ thể, bao gồm cả hành vi phạm tội.

Nghiên cứu các đặc điểm nhân thân của người phạm tội giúp chúng ta hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tội phạm Qua đó, có thể dự đoán khả năng xảy ra tội phạm trong tương lai và đề xuất các biện pháp phòng ngừa phù hợp Việc này góp phần quan trọng trong việc hạn chế tội phạm một cách hiệu quả.

Thông số về số vụ và số người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2007-2011

Trong thời gian qua, tình hình tội phạm xâm hại trẻ em, đặc biệt là tội hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai, diễn ra rất phức tạp và có xu hướng gia tăng Theo báo cáo của Công an tỉnh Đồng Nai, từ năm 2007 đến năm 2011, tội phạm hiếp dâm trẻ em xảy ra hầu hết ở các địa phương trong tỉnh, với 87 vụ hiếp dâm trẻ em trong tổng số 203 vụ xâm phạm tình dục trẻ em, chiếm tỷ lệ 42,85%.

Số vụ và số người phạm tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai được thống kê như sau:

Bảng 1.1 Số vụ và số người phạm tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2007 – 2011

Năm Số vụ Số người phạm tội

(Nguồn: Công an tỉnh Đồng Nai)

Từ năm 2007 đến 2011, Công an tỉnh Đồng Nai đã khởi tố 87 vụ hiếp dâm trẻ em, bắt 94 bị can Cụ thể là: năm 2007 khởi tố 17 vụ - 19 bị can; năm

Từ năm 2008 đến 2011, Công an tỉnh đã khởi tố tổng cộng 70 vụ án hiếp dâm trẻ em với 75 bị can, trung bình mỗi năm ghi nhận 17 vụ và 19 bị can Cụ thể, năm 2008 khởi tố 15 vụ với 17 bị can, năm 2009 có 16 vụ - 15 bị can, năm 2010 là 18 vụ - 18 bị can, và năm 2011 tăng lên 21 vụ - 25 bị can Để hiểu rõ hơn về xu hướng này, chúng ta có thể tham khảo biểu đồ dưới đây.

5 Công an tỉnh Đồng Nai (2007-2011), Báo cáo tổng kết công tác năm, Tài liệu lưu hành nội bộ

Biểu đồ 1.1 Số vụ, số bị can phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2007 – 2011

(Nguồn: Công an tỉnh Đồng Nai)

Từ năm 2007 đến năm 2011, tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai có sự biến động qua các năm, với số vụ án tăng và giảm tương đối đều Đặc biệt, giai đoạn từ 2008 đến 2011 ghi nhận sự gia tăng liên tục, trong đó năm 2011 có sự tăng trưởng đáng kể với 04 vụ và 06 bị can so với năm 2007, cùng với 03 vụ và 07 bị can so với năm 2010 Để làm rõ thực trạng tội phạm hiếp dâm trẻ em trong giai đoạn này, tác giả đã so sánh số liệu các vụ án và bị can với các tội xâm hại trẻ em nói chung và tội xâm hại tình dục trẻ em nói riêng.

- So sánh số vụ và bị can phạm tội này với số liệu tương ứng của các tội xâm hại trẻ em

Theo thống kê của Công an tỉnh Đồng Nai từ năm 2007 đến hết năm

Năm 2011, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh đã khởi tố 287 vụ án xâm hại trẻ em, liên quan đến 311 bị can Trong số đó, có 87 vụ án hiếp dâm trẻ em với 94 bị can, chiếm tỷ lệ 30,31% tổng số vụ và 30,22% tổng số bị can.

Từ năm 2007 đến 2011, trên địa bàn Đồng Nai, số vụ và số bị can phạm tội hiếp dâm trẻ em được ghi nhận so với các tội xâm hại trẻ em khác cho thấy một bức tranh đáng lo ngại về tình hình an ninh trẻ em Sự gia tăng của các vụ việc này yêu cầu sự chú ý và can thiệp kịp thời từ các cơ quan chức năng nhằm bảo vệ quyền lợi và an toàn cho trẻ em trong cộng đồng.

Trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2010, tỉnh Đồng Nai đã ghi nhận một số vụ án xâm hại trẻ em đáng lo ngại Cụ thể, năm 2007, có 56 vụ án với 63 bị can, trong đó 17 vụ (19 bị can) liên quan đến tội hiếp dâm trẻ em, chiếm 30,35% tổng số vụ Năm 2008, con số này là 45 vụ với 50 bị can, trong đó 15 vụ (17 bị can) hiếp dâm trẻ em, chiếm 33,33% Năm 2009, đã khởi tố 67 vụ với 67 bị can, trong đó có 16 vụ (15 bị can) hiếp dâm trẻ em, chiếm 23,88% Đến năm 2010, tỉnh đã khởi tố 44 vụ với 50 bị can, với 18 vụ (18 bị can) hiếp dâm trẻ em, chiếm 40,90% Những số liệu này cho thấy sự gia tăng đáng kể trong các vụ án hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai.

6 Công an tỉnh Đồng Nai, tlđd 5

Năm 2011 khởi tố 75 vụ với 81 bị can thì có 21 vụ với 25 bị can phạm tội hiếp dâm trẻ em chiếm tỉ lệ 28,00% số vụ và 30,86% số bị can

- So sánh số vụ và bị can phạm tội này với số liệu tương ứng của các tội xâm hại tình dục đối với trẻ em

Bảng 1.3 trình bày sự so sánh giữa số vụ và số bị can phạm tội hiếp dâm trẻ em với số vụ và số bị can liên quan đến các tội xâm hại tình dục đối với trẻ em tại Đồng Nai trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011 Số liệu này cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình tội phạm xâm hại trẻ em trong khu vực, giúp nhận diện xu hướng và mức độ nghiêm trọng của các loại tội phạm này.

Năm Tội hiếp dâm trẻ em Tội xâm hại tình dục đối với trẻ em

(Nguồn: Công an tỉnh Đồng Nai)

Từ năm 2007 đến 2011, tỉnh Đồng Nai ghi nhận sự gia tăng đáng lo ngại về các vụ án xâm hại tình dục trẻ em Cụ thể, năm 2007 có 40 vụ án với 43 bị can, trong đó 17 vụ hiếp dâm trẻ em chiếm 40,50% Năm 2008, số vụ án giảm xuống còn 28 nhưng tỷ lệ hiếp dâm trẻ em tăng lên 53,57% với 15 vụ Năm 2009, tổng số vụ khởi tố tăng lên 52, nhưng tỷ lệ hiếp dâm trẻ em lại giảm xuống 30,76% Năm 2010, tỷ lệ hiếp dâm trẻ em đạt mức cao nhất với 69,23% trong 26 vụ Cuối cùng, năm 2011, tỉnh ghi nhận 57 vụ với 21 vụ hiếp dâm trẻ em, chiếm 36,84% Những con số này phản ánh một thực trạng nghiêm trọng về xâm hại tình dục trẻ em tại địa phương.

Trong giai đoạn 2007 – 2011, tỉ lệ vụ án hiếp dâm trẻ em chiếm ưu thế trong tổng số vụ xâm hại tình dục đối với trẻ em, với 42,85% tổng số vụ án và 44,33% số bị can.

2010, tỷ lệ này lên tới 69,23% cả số vụ và số bị can).

Đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2007-2011

1.3.1 Đặc điểm sinh học của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Nghiên cứu về 101 người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai từ 2007 đến 2011 cho thấy tất cả đều là nam giới, phản ánh đặc thù của tội phạm này Trong số đó, 33 người chưa thành niên chiếm 32,67%, trong khi 68 người đã thành niên chiếm 67,33% Mặc dù đa số là người đã thành niên, tỷ lệ 32,67% người phạm tội trong độ tuổi chưa thành niên cho thấy tình trạng “trẻ hóa” trong loại tội phạm này đang cần được chú ý Để hiểu rõ hơn về đặc điểm độ tuổi, tác giả đã phân loại thành 5 nhóm tuổi khác nhau.

Bảng 1.4 Cơ cấu độ tuổi người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến năm 2011

STT Đội tuổi người phạm tội Số bị cáo Tỉ lệ %

(Nguồn: 97 bản án HSST của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007 đến 2011 về tội hiếp dâm trẻ em)

Theo thống kê, nhóm tuổi thanh niên từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất trong các trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai, với 49 trường hợp, tương đương 48,51% Đứng thứ hai là nhóm tuổi chưa thành niên.

Trong số các trường hợp hiếp dâm tại tỉnh Đồng Nai, độ tuổi từ 16 đến 18 chiếm tỷ lệ cao nhất với 20 trường hợp, tương đương 19,80% Tiếp theo là nhóm trẻ em từ 14 đến 16 tuổi với 13 trường hợp, chiếm 12,87% Lứa tuổi trung niên từ 30 đến 45 tuổi có 12 trường hợp, chiếm 11,88%, trong khi nhóm người lớn tuổi từ 45 trở lên chỉ có 07 trường hợp, chiếm 6,93% Biểu đồ dưới đây sẽ giúp minh họa rõ hơn về độ tuổi của người phạm tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

Biểu đồ 1.2 Cơ cấu độ tuổi người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến năm 2011

(Nguồn: 97 bản án HSST của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007 đến 2011 về tội hiếp dâm trẻ em)

1.3.2 Đặc điểm về trình độ văn hoá, xã hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi cư trú của người phạm tội

Nghiên cứu đặc điểm nhân thân của 101 người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai từ 97 bản án hình sự sơ thẩm (2007-2011) cho thấy đa số đối tượng có trình độ văn hóa thấp Cụ thể, có 12 đối tượng không biết chữ (11,88%), 24 đối tượng trình độ tiểu học (23,76%), 54 đối tượng trình độ trung học cơ sở (53,46%), và chỉ 11 đối tượng có trình độ trung học phổ thông (10,89%) Đặc biệt, không có trường hợp nào có trình độ đại học hoặc cao đẳng.

Bảng 1.5 trình bày cơ cấu trình độ học vấn của những người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai, được TAND tỉnh xử sơ thẩm trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011.

STT Trình độ văn hóa Số đối tượng Tỉ lệ %

(Nguồn: 97 bản án HSST của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007 đến 2011 về tội hiếp dâm trẻ em)

Biểu đồ 1.3 thể hiện cơ cấu trình độ học vấn của những người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai, được TAND tỉnh xử lý trong giai đoạn sơ thẩm từ năm.

Không biết chữ Tiểu học THCS THPT ĐHCĐ

(Nguồn: 97 bản án HSST của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007 đến 2011 về tội hiếp dâm trẻ em)

Biểu đồ cho thấy, tại tỉnh Đồng Nai, 89,11% số người phạm tội hiếp dâm trẻ em có trình độ văn hóa thấp, dưới mức phổ cập giáo dục, cho thấy họ thường thiếu hiểu biết và nhận thức pháp luật hạn chế Một ví dụ điển hình là vụ án của Văn Cường, sinh năm 1967, không biết chữ, đã nhiều lần hiếp dâm cháu Thị Hồng, con riêng của bạn gái Mặc dù chị Kiểu, mẹ của Hồng, phát hiện và phản đối, Cường vẫn tiếp tục hành vi phạm tội, coi Hồng như vợ của mình, với tần suất từ 2 đến 3 lần mỗi tuần cho đến khi bị phát hiện vào tháng 9/2006.

Vào ngày 23/12/2006, trong dịp lễ Noel, cháu Hồng đã về quê ngoại ở xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc và chia sẻ với chị Nguyễn Kỳ Minh Châu về tình huống khó khăn của mình Mặc dù chị Châu khuyên Hồng không nên trở về nhà Cường, nhưng do sợ mẹ đánh, Hồng vẫn phải quay lại và tiếp tục chịu đựng những hành vi xâm hại không mong muốn Đến ngày 08/01/2007, không còn khả năng chịu đựng, Hồng đã nhờ chị Châu làm đơn tố cáo hành vi phạm tội của Cường.

337/2007/HSST ngày 31/10/2007 của TAND tỉnh Đồng Nai) b Đặc điểm về nghề nghiệp:

Thành phần nghề nghiệp của những người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai rất đa dạng, theo thống kê từ 97 bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2007-2011 Trong số 101 bị cáo, có 37 người không có nghề nghiệp hoặc công việc không ổn định, 19 người làm nông, 14 người thợ xây, 13 người là học sinh, sinh viên, 9 người công nhân, và 2 người làm nghề buôn bán Ngoài ra, còn có 2 thợ mộc, 2 thợ cơ khí, 1 lái xe, 1 thợ hớt tóc và 1 người làm nghề sửa chữa điện tử.

Tác giả thống kê nhóm nghề nghiệp của người phạm tội hiếp dâm trẻ em như sau:

Bảng 1.6 Cơ cấu nghề nghiệp của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011

STT Nghề nghiệp Số người phạm tội

5 Công nhân trong các khu công nghiệp 09 8,91

7 Thợ mộc, cơ khí, điện tử, lái xe, hớt tóc

(gọi chung là nghề khác)

(Nguồn: 97 bản án HSST của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007 đến 2011 về tội hiếp dâm trẻ em)

Biểu đồ 1.4 Cơ cấu nghề nghiệp của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011

Không nghề nghiệp Làm rẩy Thợ xây HSSV Công nhân Buôn bán Nghề khác

(Nguồn: 97 bản án HSST của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007 đến 2011 về tội hiếp dâm trẻ em)

Theo thống kê, tỷ lệ người không có nghề nghiệp hoặc có nghề nghiệp không ổn định, làm thuê làm mướn chiếm cao nhất trong số đối tượng phạm tội hiếp dâm trẻ em ở Đồng Nai, với 37 trên 101 người, tương đương 36,63% Tiếp theo là nhóm người làm ruộng, làm rẫy.

Theo thống kê, trong số những người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai, có 19 người không có nghề nghiệp ổn định, chiếm 18,81% Tiếp theo là 14 thợ xây và phụ hồ, chiếm 13,86% Học sinh, sinh viên cũng góp mặt với 13 trường hợp, tương đương 12,28% Công nhân các công ty xí nghiệp có 9 người, chiếm 8,91% Các trường hợp khác như buôn bán chỉ có 2 người (1,89%), và các nghề khác như thợ mộc, cơ khí, điện tử, lái xe, hớt tóc chỉ từ 1 đến 2 người, tổng cộng 6,39% Đặc biệt, không có trường hợp nào là công chức nhà nước hoặc có uy tín trong xã hội Điều này cho thấy phần lớn đối tượng phạm tội là những người lao động tự do, sống trong hoàn cảnh khó khăn, ít tiếp xúc xã hội và thường tụ tập uống rượu sau giờ làm, dẫn đến những hành vi sai trái.

Trong một số trường hợp đáng lo ngại, có những người làm thuê chỉ quanh quẩn trong ruộng rẫy, không tiếp xúc với phụ nữ ngoài con gái của gia chủ Điển hình là vụ việc của Trần Nam Anh (sinh năm 1992) và Nguyễn Trung Anh (sinh năm 1995), khi họ đã có hành vi giao cấu với con gái gia chủ mới chỉ 7 tuổi.

Vào tháng 10 năm 2008, Trần Nam Anh từ Nghệ An đến làm thuê cho gia đình anh Phan Văn Thành và chị Thạnh Thị Thanh Tâm tại Trảng Bom Trong một lần chăn vịt, Nam Anh và Nguyễn Trung Anh phát hiện cháu Phan Thị Thanh Phương, sinh năm 2002, đang chơi một mình trong chòi vịt Họ đã rủ nhau vào chòi và thực hiện hành vi giao cấu với cháu Phương, trong đó Nam Anh đứng ngoài canh gác còn Trung Anh vào trong để thực hiện hành vi Sau đó, Trung Anh ra ngoài và để Nam Anh tiếp tục hành vi với cháu Phương.

Hai ngày sau, vào khoảng 14 giờ, Nam Anh và Trung Anh đã đến chòi vịt, nơi chỉ có một mình cháu Phương Hai tên này đã rủ cháu vào chòi và thay nhau canh gác để thực hiện hành vi giao cấu với cháu như lần trước Đến tháng 7/2009, khi Trần Nam Anh và Nguyễn Trung Anh không còn làm thuê cho gia đình chị Tâm, cháu Phương mới dám kể lại những sự việc đã xảy ra cho mẹ mình (Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2010/HSST ngày 07/01/2010 của TAND tỉnh Đồng Nai)

Theo thống kê từ 97 bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007 đến 2011 về tội phạm hiếp dâm trẻ em, trong số 101 đối tượng phạm tội, chỉ có 24 trường hợp đã có vợ, chiếm 23,76%, trong khi 77 trường hợp còn lại chưa có vợ, chiếm 76,24% Tỷ lệ đối tượng có hoàn cảnh gia đình thuận lợi chỉ là 20,79% (21 trường hợp), trong khi 79,21% (80 trường hợp) có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi Cụ thể, có 11 trường hợp mồ côi cả cha lẫn mẹ, 11 trường hợp mồ côi cha, 5 trường hợp mồ côi mẹ, và 39 trường hợp có cha mẹ không hòa thuận hoặc không quan tâm đến việc giáo dục con cái.

Bảng 1.7 Hoàn cảnh gia đình của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011

Bản thân người phạm tội Đã có vợ 24 23,76

Hoàn cảnh gia đình (Cha mẹ, người nuôi dưỡng)

Mồ côi cả cha và mẹ 11 10,89

Cha mẹ li hôn hoặc không hòa thuận

(Nguồn: 97 bản án HSST của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007 đến 2011 về tội hiếp dâm trẻ em)

Đặc điểm liên quan đến mối quan hệ giữa người phạm tội và nạn nhân

Theo thống kê từ 97 bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007 đến 2011 về tội phạm hiếp dâm trẻ em, chỉ có 5 vụ giữa người phạm tội và nạn nhân không quen biết nhau Trong khi đó, 92 vụ còn lại là giữa người phạm tội và nạn nhân đã quen biết, thậm chí có những trường hợp là anh em, bà con, hoặc có quan hệ huyết thống Số liệu cụ thể được trình bày trong bảng thống kê.

Bảng 1.10 trình bày mối quan hệ giữa người phạm tội hiếp dâm trẻ em và nạn nhân tại Đồng Nai, dựa trên dữ liệu từ các vụ án được TAND tỉnh xử sơ thẩm trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011 Thông tin này phản ánh những xu hướng và đặc điểm của các vụ hiếp dâm trẻ em, giúp nâng cao nhận thức và hỗ trợ công tác phòng ngừa tội phạm.

STT Mối quan hệ Số vụ Tỉ lệ %

03 Cha dượng với con vợ 04 4,12

04 Chú cháu, anh em bà con 05 5,15

(Nguồn: 97 bản án HSST của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007- 2011 về tội hiếp dâm trẻ em )

Biểu đồ 1.10 thể hiện cơ cấu mối quan hệ giữa người phạm tội hiếp dâm trẻ em và nạn nhân tại Đồng Nai, dựa trên số liệu từ các vụ án được TAND tỉnh xử sơ thẩm trong giai đoạn 2007 đến 2011.

Không quen biết Cha với con Cha dượng với con vợ

Bà con anh em Hàng xóm Quen biết khác

(Nguồn: 97 bản án HSST của TAND tỉnh Đồng Nai từ 2007- 2011 về tội hiếp dâm trẻ em)

Dựa trên bảng thống kê và biểu đồ, hầu hết các vụ hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai từ năm 2007 đến 2011 đều liên quan đến mối quan hệ quen biết giữa kẻ phạm tội và nạn nhân Đặc biệt, có nhiều trường hợp cha hiếp dâm chính con ruột của mình.

Trong tổng số vụ án hiếp dâm trẻ em, có 05 vụ chiếm 5,15%, trong đó nổi bật là vụ Nguyễn Văn Thương ở ấp 9, xã Gia Canh, huyện Định Quán Thương đã nhiều lần hiếp dâm hai con gái của mình, bắt đầu từ năm 1997 khi ép buộc con gái Nguyễn Thị Kim Nguyên, sinh năm 1985, bằng cách đe dọa và hăm dọa sẽ đánh nếu cô tiết lộ Từ tháng 10 đến tháng 11 năm 2005, Thương tiếp tục hành vi tội lỗi với con gái thứ hai, Nguyễn Thị Thảo, sinh năm 1990 Vào tháng 02/2006, bà Lê Thị Khoan, bà ngoại của Thảo, phát hiện sự phát triển không bình thường của cháu và đã hỏi han, từ đó Thảo đã kể lại sự việc bị cha hãm hiếp Bà Khoan sau đó đã thông báo cho Nguyễn Thị Kim Nguyên về sự việc.

Nguyên đã nộp đơn tố cáo cha mình do sự bức xúc trước hành vi của ông, dẫn đến bản án hình sự sơ thẩm số 363/2007/HSST được TAND tỉnh Đồng ban hành vào ngày 28/11/2007.

Trường hợp cha dượng hiếp dâm con riêng của vợ chiếm 4,12% tổng số vụ án hiếp dâm trẻ em, với 04 vụ được ghi nhận Một trong những vụ điển hình là của Đặng Công Khánh, sinh năm 1978, cư trú tại phường Tam Hòa, TP Biên Hòa Khánh và Phạm Thị Nhâm, đều đã ly hôn, đã cùng nhau đến TP Biên Hòa từ Sơn Dương, Tuyên Quang vào năm 2002 và sống như vợ chồng Đến tháng 4/2007, cháu Vũ Thị Hương, con riêng của Nhâm, từ Tuyên Quang đến sống cùng Khánh đã nảy sinh ý định giao cấu với cháu Hương nhưng chưa thực hiện được do sự hiện diện của Nhâm.

Vào khoảng 14h30 ngày 04/10/2008, Khánh đã lừa chị Nhâm đi xin việc và chở chị đến khu vực chợ Nhỏ để ăn chè Sau đó, Khánh rủ chị vào khu đất trống chuẩn bị xây dựng bệnh viện Đồng Nai, nơi Khánh đã tấn công chị Nhâm, khiến chị gục xuống và bóp cổ đến chết Sau khi giấu xác chị Nhâm trong bụi cây, Khánh mượn xe mô tô của ông Nguyễn Bảo Long để về phòng tắm rửa Để đánh lừa cháu Hương về sự vắng mặt của chị Nhâm, Khánh đã gửi tin nhắn giả mạo rằng chị Nhâm đi Vũng Tàu xin việc Sau đó, Khánh đưa cháu Hương đi Vũng Tàu nhưng không thành công trong việc quan hệ tình dục, và cả hai đã trở về nhà trọ, nơi Khánh đã giao cấu với cháu Hương vào đêm 10/10/2008.

Trường hợp người phạm tội là người thân của nạn nhân không phải là hiếm, với 5 vụ chiếm 5,15% tổng số vụ án hiếp dâm trẻ em Một ví dụ điển hình là Đoàn Anh Phúc, sinh năm 1984, cư trú tại xã Bình Sơn, huyện Long Thành, là con cùng mẹ nhưng khác cha với Nguyễn Thị Anh Thư, sinh ngày 25/7/1996 Vào khoảng 5 giờ sáng, khi cha mẹ Thư đi làm, chỉ còn lại Phúc và Thư ở nhà.

Vào khoảng 06h ngày 05/6/2007, Phúc đã đánh thức Thư đang ngủ và thực hiện hành vi giao cấu với cháu Sau khi hành vi này xảy ra, Phúc yêu cầu Thư không được tiết lộ sự việc cho ai biết Hành vi này tiếp diễn khoảng 2 đến 3 ngày một lần cho đến khi Thư, do tức giận vì bị đánh, đã kể lại toàn bộ sự việc cho mẹ là chị Vũ Thị Linh Chồng chị Linh, anh Nguyễn Văn Tài, đã tố cáo hành vi phạm tội của Phúc, dẫn đến bản án hình sự sơ thẩm số 375/2007/HSST ngày 14/12/2007.

Theo thống kê từ năm 2007 đến 2011 tại tỉnh Đồng Nai, phần lớn các vụ án hiếp dâm trẻ em có nạn nhân là những trẻ dưới 13 tuổi, chiếm 77,32% với 75/97 trường hợp Đặc biệt, có 10 em chưa đến 6 tuổi, chiếm 10,30% Đối tượng phạm tội chủ yếu là hàng xóm của nạn nhân, với 56 vụ, tương đương 57,73% Tiếp theo là những người quen biết như bạn học, đồng nghiệp, chiếm 22 vụ, tương đương 22,68% Các đối tượng này thường lợi dụng sự ngây thơ của trẻ nhỏ và tình huống vắng vẻ, cùng với sự thiếu quan tâm từ cha mẹ, để thực hiện hành vi đồi bại thông qua các thủ đoạn mua chuộc, khống chế hoặc đe dọa.

Từ năm 2007 đến nay, tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai đã có những diễn biến đáng chú ý Bài viết này cung cấp cái nhìn tổng quan về đặc điểm nhân thân của những người phạm tội, giúp hiểu rõ hơn về nguyên nhân và tình hình tội phạm trong khu vực.

Nghiên cứu và phân tích số liệu tội phạm cho thấy tình hình hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai diễn ra phức tạp, với sự biến động qua các năm Từ năm 2008 đến 2011, số vụ án có xu hướng gia tăng liên tục, trong đó năm 2011 ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể với 04 vụ và 06 bị can so với năm 2007, cũng như 03 vụ và 07 bị can so với năm 2010.

Nghiên cứu 97 bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai từ năm 2007 đến 2011 về tội phạm hiếp dâm trẻ em cho thấy đối tượng phạm tội chủ yếu là thanh niên từ 18 đến 30 tuổi và trẻ em, có trình độ văn hóa thấp, chủ yếu dưới trung học cơ sở Họ thường không có nghề nghiệp ổn định và sống trong hoàn cảnh gia đình khó khăn, với nhận thức pháp luật và giá trị đạo đức kém Nhu cầu hứng thú của họ nghèo nàn, có thói quen không lành mạnh như nghiện ma túy và rượu bia, cũng như thích xem phim khiêu dâm và chơi game bạo lực Động cơ phạm tội thường xuất phát từ nhu cầu tình dục trái pháp luật và đạo đức, và giữa đối tượng phạm tội và nạn nhân thường có mối quan hệ quen biết hoặc thậm chí là quan hệ huyết thống.

NGUYÊN NHÂN CỦA TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI GIAI ĐOẠN 2007-2011 CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI, DỰ BÁO VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA ĐỐI VỚI TỘI PHẠM NÀY

Nguyên nhân liên quan đến đặc điểm tâm lí, thói quen, nhận thức của người phạm tội

- Do nghiện ma túy, rượu bia hoặc chất kích thích khác dẫn đến hành vi phạm tội

Kết quả khảo sát từ 100 phạm nhân hiếp dâm trẻ em tại trại giam Xuân Lộc và trại tạm giam B5, Công an tỉnh Đồng Nai cho thấy 21% phạm nhân thừa nhận phạm tội do thường xuyên sử dụng ma túy, trong khi 23% khác cho biết họ đã phạm tội trong tình trạng say rượu, bia, không làm chủ được bản thân Việc nghiện các chất kích thích này được coi là “phương tiện” nhanh nhất dẫn đến sự suy đồi nhân cách và hành vi phạm tội.

Hành vi của Nguyễn Quốc Cường, sinh năm 1989, sau khi say rượu đã hoàn toàn đánh mất nhân tính, dẫn đến việc anh ta thực hiện hành vi hiếp dâm chị Kim Thị Loan Thảo vào đêm 20/7/2007 Biết chồng chị Thảo vắng nhà, Cường đã chuẩn bị một con dao và đột nhập vào nhà chị Thảo với ý định xâm hại Khi bị chị Thời, em ruột chị Thảo, nghi ngờ và hỏi thăm, Cường đã dùng dao đe dọa buộc chị Thảo phải giả vờ không có ai trong nhà Sau khi chị Thời rời đi, Cường đã dùng dao khống chế chị Thảo, nhưng chị đã kịp thời chạy thoát Đáng sợ hơn, Cường đã bắt cóc và hiếp dâm cháu Trần Thị Mộng Linh, con gái chị Thảo, chỉ mới 2011 tuổi, tại một địa điểm cách nhà chị Thảo khoảng 200 mét.

HSST số 379/2007/HSST ngày 17/12/2007 của TAND tỉnh Đồng Nai)

Thói quen xem phim khiêu dâm, chơi game bạo lực đã tạo ra một lối sống trụy lạc, làm giảm giá trị nhân phẩm của con người Hành vi này có thể dẫn đến những tội phạm nhằm thỏa mãn dục vọng thấp hèn của cá nhân.

Theo khảo sát, 20% người phạm tội hiếp dâm trẻ em cho biết nguyên nhân do ảnh hưởng từ phim sex, game bạo lực và khiêu dâm Những đối tượng này thường có nhu cầu hứng thú nghèo nàn và thói quen không lành mạnh Trường hợp điển hình là Trần Thanh Tùng, sinh năm 1994, sau khi xem phim sex đã thực hiện hành vi đồi bại với cháu Trịnh Thị Thư, mới 4 tuổi, do bị kích thích bởi nội dung khiêu dâm Hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn đi ngược lại với luân lý xã hội.

Vào năm 2011, Tùng đã bị tố cáo về hành vi giao cấu với cháu Thư khi mới 4 tuổi Trong lúc đang thực hiện hành vi này, mẹ cháu Thư, chị Nguyễn Thị Minh, đã đến gọi con về Để tránh bị phát hiện, Tùng đã vội vàng mặc quần và mở cửa cho cháu Thư ra về Khi thấy con mặc quần ngược, chị Minh đã hỏi và cháu Thư đã kể lại sự việc Chị Minh sau đó đã làm đơn tố cáo Tùng Trong quá trình điều tra, Tùng cũng thừa nhận đã thực hiện hành vi giao cấu thêm 4 lần với cháu Lê Thị Thanh Thủy, một người họ hàng cùng ấp (Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2011/HSST ngày 25/4/2011 của TAND tỉnh Đồng Nai)

- Do tính bồng bột, thích khám phá bản thân, không nghĩ đến hậu quả tác hại, của một số đối tượng ở lứa tuổi chưa thành niên

Theo thống kê từ 97 bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai từ năm 2007 đến 2011 về tội danh hiếp dâm trẻ em, có 20/101 đối tượng phạm tội là chưa thành niên (từ 16 đến 18 tuổi), chủ yếu ở độ tuổi dậy thì và một số đã phát triển tâm sinh lý Những đối tượng này thường bỏ học, thiếu kiến thức về tình yêu, tình dục và gia đình, thích khám phá bản thân mà không nghĩ đến hậu quả Điển hình là trường hợp của Lê Văn Nhựt Tân, sinh năm 1989, đã 5 lần giao cấu với cháu Nguyễn Thị Thi, chưa đầy 10 tuổi, trong thời gian sống gần nhau tại chùa Thiền Tịnh Hành vi của Tân diễn ra từ tháng 4 đến ngày 15/8/2006, cho đến khi bị phát hiện (Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2007/HSST ngày 24/01/2007 của TAND tỉnh Đồng Nai)

- Do tính tò mò, hay bắt chước trong phim ảnh hoặc từ người lớn của một số đối tượng là trẻ em

Cũng theo thống kê từ 97 bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai như ở trên cho thấy: Có 13/101 trường hợp phạm tội này là trẻ em

Ở lứa tuổi từ 14 đến 16, tâm lý và sinh lý của các em chưa phát triển đầy đủ, khiến các em nhạy cảm và dễ bị tác động bởi môi trường xung quanh Sự tò mò và khả năng bắt chước, đặc biệt là những hành vi xấu, thường dẫn đến việc các em dễ dàng bị lôi kéo vào con đường phạm tội Một ví dụ điển hình là trường hợp của Lê Nhật Tân, chỉ mới 15 tuổi nhưng đã nhiều lần truy cập các trang web “đen” trên internet Tân đã dụ dỗ cháu Trần Thị Yến Nhi, một cô bé thích chơi hình siêu nhân, để thực hiện hành vi giao cấu bằng cách hứa hẹn sẽ cho hình siêu nhân Hành vi này diễn ra nhiều lần và chỉ bị phát hiện khi chú ruột của Nhi vào nhà.

37/2009/HSST ngày 07/4/2009 của TAND tỉnh Đồng Nai)

- Do lối sống buông thả, xem thường pháp luật, bất chấp luân thường đạo lí của một số đối tượng là người đã trưởng thành

Theo thống kê từ TAND tỉnh Đồng Nai, trong số 101 bị cáo bị xét xử về tội hiếp dâm trẻ em từ năm 2007 đến 2011, có 12 người trong độ tuổi từ 30 đến 45 và 7 người trên 45 tuổi Đáng chú ý, nhiều đối tượng này đã có gia đình nhưng do lối sống buông thả, nghiện rượu và ma túy, họ đã mất đi nhân tính và vi phạm pháp luật Một trường hợp điển hình là Dương Minh Phúc, 45 tuổi, từng có hai tiền án và đã ly hôn do không có nghề nghiệp ổn định Vào tối ngày 07/12/2010, trong khi làm xe ôm, Phúc đã thực hiện hành vi hiếp dâm đối với cháu Lương Thành Ngọc Trinh, 15 tuổi, sau khi đưa cháu đi chơi Khi bị chống cự, Phúc đã sử dụng vũ lực để thực hiện hành vi đồi bại này.

- Do nhận thức pháp luật và các chuẩn mực đạo đức xã hội hạn chế dẫn đến hành vi pham tội

Nhiều thanh, thiếu niên thiếu nhận thức về pháp luật và giá trị đạo đức xã hội, dẫn đến việc họ cho rằng mình có quyền yêu trẻ em dưới 13 tuổi Một ví dụ điển hình là vụ án của Trần Thanh Tuấn và Thạch Thị Ngọc Tuyết, nơi Tuấn đã hai lần giao cấu với Tuyết trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2006 Trong lần đầu, sau khi đã uống rượu, Tuấn đã ôm hôn và cưỡng ép Tuyết tại một góc khu phố, trong khi lần thứ hai diễn ra tại một ngôi nhà bỏ hoang Sự việc này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây tổn hại nghiêm trọng đến tâm lý và sự phát triển của trẻ em.

Dự báo và các biện pháp phòng ngừa có liên quan đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Nghiên cứu đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai yêu cầu dự báo tình hình tội phạm, nhằm đánh giá mức độ, tính chất và xu hướng phát triển của tội phạm này trong tương lai Việc xác định các yếu tố liên quan đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội là cần thiết Để đưa ra những phán đoán hợp lý và chính xác, tác giả cần dựa vào dữ liệu và tài liệu khoa học có độ tin cậy cao, cùng với phương pháp nghiên cứu đúng đắn.

Dự báo tình hình tội phạm, đặc biệt là tội phạm hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai, cần dựa vào các yếu tố xã hội như kinh tế, văn hóa và nhân khẩu học Tình hình tội phạm không phải tự phát sinh mà là hệ quả của các mối quan hệ tiêu cực trong xã hội Để đưa ra dự báo chính xác, cần phân tích dữ liệu về tình hình tội phạm và đặc điểm nhân thân của người phạm tội trong những năm gần đây Từ các nghiên cứu và phân tích khoa học, tác giả sẽ đưa ra những dự báo cụ thể về tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai, liên quan đến đặc điểm của người phạm tội.

2.2.1 Dự báo tình hình chính trị, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng tới tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Giai đoạn hiện tại và những năm tới là thời điểm quan trọng cho sự phát triển kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Kinh tế tỉnh Đồng Nai sẽ tiếp tục phát triển theo định hướng, khai thác hiệu quả lợi thế về vị trí và cạnh tranh Vai trò của kinh tế Đồng Nai ngày càng được khẳng định và đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của cả nước.

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IX đã đánh giá rằng, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động khó lường, đặc biệt là năm 2009 do tác động của suy giảm kinh tế toàn cầu, kết quả thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ của cả nước và Đồng Nai cũng bị ảnh hưởng Tuy nhiên, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của Đồng Nai vẫn được duy trì và phát triển.

5 năm (2006 – 2010) đa số đạt và vượt so với mục tiêu Nghị quyết đề ra Sự

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng đã giúp ngành dịch vụ gia tăng đáng kể, trong khi ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm ưu thế trong tổng GDP, tạo nền tảng cho tỉnh phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại Môi trường đầu tư của tỉnh ngày càng hấp dẫn, thu hút cả đầu tư trong nước và nước ngoài Đồng thời, các lĩnh vực văn hóa - xã hội và quản lý môi trường cũng được chú trọng Công tác quốc phòng và an ninh trật tự được đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Suy giảm kinh tế toàn cầu đã dẫn đến giá trị sản xuất ngành công nghiệp giảm so với năm trước, kim ngạch xuất khẩu không đạt kế hoạch Tốc độ đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp và khu vực kinh tế nội địa vẫn còn thấp Dịch vụ cho khu công nghiệp, đặc biệt là nhà ở và giải trí cho công nhân, phát triển chậm Trong nông nghiệp, tình hình tiêu thụ nông sản không ổn định hạn chế khả năng đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi An ninh trật tự xã hội có nhiều vấn đề phức tạp, với tội phạm và tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, và trộm cắp vẫn tồn tại Tình trạng khiếu kiện đông người và gây rối an ninh vẫn tiếp diễn Trình độ cán bộ công chức không đồng đều, một số cán bộ cấp xã còn yếu kém về học vấn và chuyên môn Mặc dù có nỗ lực cải cách hành chính, một số địa phương vẫn chưa đáp ứng yêu cầu Hợp tác phát triển kinh tế giữa tỉnh và các địa phương khác, đặc biệt trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, chưa đạt hiệu quả cao.

Mục tiêu của Đồng Nai trong giai đoạn 2011-2015 là phát triển kinh tế với tốc độ nhanh và bền vững, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế Đồng Nai cũng đặt mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cải thiện chất lượng phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững ổn định chính trị, và bảo đảm quốc phòng, an ninh cũng như trật tự an toàn xã hội.

2015 trở thành tỉnh cơ bản công nghiệp hóa - hiện đại hóa 9

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng giai đoạn 2011-2015, Đồng Nai cần thu hút khoảng 260.000 đến 270.000 tỷ đồng (tương đương 13 đến 13,5 tỷ USD) vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, trong đó vốn trong nước chiếm 49-50% và vốn đầu tư nước ngoài chiếm 50-51% Tổng nhu cầu lao động hàng năm tăng thêm khoảng 70.000 - 75.000 lượt, chủ yếu từ các doanh nghiệp mới thành lập và nhu cầu lao động từ các doanh nghiệp hiện có Cần thu hút từ 10 đến 12 ngàn lao động từ các địa phương khác Dự kiến đến năm 2015, dân số Đồng Nai sẽ đạt 2,7 đến 2,8 triệu người, với hơn 1,8 triệu người trong độ tuổi lao động.

Mặc dù có những thuận lợi trong tổ chức và quản lý kinh tế, nhưng vẫn tồn tại nhiều yếu kém và hạn chế, cùng với những biểu hiện tiêu cực của nền kinh tế thị trường Những yếu tố tiêu cực này, phát sinh từ quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục là nguyên nhân và điều kiện cho sự gia tăng tội phạm, đặc biệt là tội phạm hiếp dâm trẻ em Những vấn đề này khó có thể được khắc phục triệt để trong thời gian tới, đặc biệt là trong khoảng thời gian đến năm 2015.

Tỉnh ủy Đồng Nai (2010) trong Văn kiện đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IX nhiệm kỳ 2010-2015 đã chỉ ra rằng, sự tác động của các yếu tố tiêu cực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội sẽ tiếp tục diễn ra với mức độ và tính chất nghiêm trọng.

Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện Đề án cải cách toàn diện hệ thống giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho thời kỳ công nghiệp Tại Đồng Nai, mục tiêu đổi mới giáo dục được xác định là bước đột phá, với kế hoạch phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2015 và 100% trường đạt chuẩn quốc gia vào năm 2020 Tuy nhiên, những hạn chế trong giáo dục vẫn tồn tại, dẫn đến tình trạng dân trí không đồng đều giữa các vùng, miền Những yếu kém này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục mà còn là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng tội phạm, đặc biệt là tội phạm hiếp dâm trẻ em Trong giai đoạn từ nay đến năm 2015, tình trạng tội phạm này vẫn sẽ diễn ra nghiêm trọng do ảnh hưởng của những hạn chế trong giáo dục.

Tình hình quản lý xã hội về an ninh, trật tự ở nước ta hiện nay còn lỏng lẻo, không có dấu hiệu cho thấy sẽ có thay đổi tích cực trong tương lai gần Tội phạm tham nhũng diễn biến phức tạp và chưa được kiểm soát, với nhiều cán bộ chính quyền và cơ quan bảo vệ pháp luật có biểu hiện suy thoái và tham nhũng, thể hiện qua sự thiếu trách nhiệm và bao che cho tội phạm Các loại tội phạm và tệ nạn xã hội vẫn diễn ra phức tạp, đặc biệt là tội phạm hiếp dâm trẻ em, đang có xu hướng gia tăng nghiêm trọng tại Đồng Nai và các khu vực lân cận.

Tình trạng phim ảnh và văn hóa phẩm đồi trụy, cùng với sự thiếu chỗ vui chơi lành mạnh, đang tác động tiêu cực đến nam thanh niên và đàn ông ở các vùng quê hẻo lánh Điều này dẫn đến việc gia tăng tội phạm hiếp dâm trẻ em trong tương lai, do không thể khắc phục nhanh chóng Để đối phó với các cơ quan bảo vệ pháp luật, tội phạm sẽ áp dụng những phương thức xảo quyệt hơn, như khống chế và mua chuộc nạn nhân cũng như cơ quan điều tra, từ đó làm gia tăng các vụ hiếp dâm trẻ em và phát sinh thêm nhiều tội phạm khác.

2.2.2 Dự báo về tình hình tội phạm liên quan đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội hiếp dâm trẻ em ở Đồng Nai trong thời gian tới

Dựa trên các yếu tố dự báo về tình hình chính trị, kinh tế và xã hội, cùng với thực trạng tội phạm hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Đồng Nai từ năm 2007 đến 2011, có thể dự đoán rằng tình hình tội phạm này sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp trong thời gian tới, đặc biệt liên quan đến đặc điểm nhân thân của những người phạm tội.

2.2.2.1 Dự báo về tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em

Tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai vẫn diễn biến phức tạp, mặc dù các cơ quan chức năng đã nỗ lực hoàn thiện tổ chức và hoạt động phòng ngừa Quá trình giải quyết vấn đề này không thể diễn ra ngay lập tức, và mặc dù đã nhận thức rõ nguyên nhân, các giải pháp khắc phục vẫn chưa được thực hiện hiệu quả Tác động tiêu cực từ nền kinh tế thị trường tiếp tục ảnh hưởng đến tâm lý và lối sống của người dân, làm gia tăng tình trạng tội phạm Đồng Nai, với tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội phức tạp, vẫn phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp và sự thiếu quan tâm trong giáo dục con cái từ một số gia đình, dẫn đến trẻ em dễ bị xâm hại Các yếu tố xã hội tiêu cực tiếp tục góp phần vào tình trạng tội phạm hiếp dâm trẻ em, cho thấy rằng tình hình này có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây.

2.2.2.2 Dự báo về đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em a Về đặc điểm sinh học:

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:09

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1.1. Số vụ và số người phạm tội hiếp dâm   trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2007 – 2011 - Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học
Bảng 1.1. Số vụ và số người phạm tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2007 – 2011 (Trang 14)
Bảng 1.2. Số vụ và số bị can phạm tội hiếp dâm trẻ em so với số vụ và số bị  can phạm các tội xâm hại trẻ em khác trên địa bàn Đồng Nai từ  2007 – 2011  Năm  Tội hiếp dâm trẻ em  Tội xâm hại trẻ em - Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học
Bảng 1.2. Số vụ và số bị can phạm tội hiếp dâm trẻ em so với số vụ và số bị can phạm các tội xâm hại trẻ em khác trên địa bàn Đồng Nai từ 2007 – 2011 Năm Tội hiếp dâm trẻ em Tội xâm hại trẻ em (Trang 16)
Bảng 1.3. So sánh số vụ và số bị can phạm tội hiếp dâm trẻ em với số vụ - Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học
Bảng 1.3. So sánh số vụ và số bị can phạm tội hiếp dâm trẻ em với số vụ (Trang 17)
Bảng 1.4. Cơ cấu độ tuổi người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn  tỉnh Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến năm 2011 - Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học
Bảng 1.4. Cơ cấu độ tuổi người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến năm 2011 (Trang 19)
Bảng 1.5. Cơ cấu trình độ học vấn của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên  địa bàn tỉnh Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến năm 2011 - Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học
Bảng 1.5. Cơ cấu trình độ học vấn của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến năm 2011 (Trang 21)
Bảng 1.6. Cơ cấu nghề nghiệp của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên   địa bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011 - Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học
Bảng 1.6. Cơ cấu nghề nghiệp của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011 (Trang 23)
Bảng 1.7. Hoàn cảnh gia đình của người phạm tội hiếp dâm trẻ em  trên địa bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011 - Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học
Bảng 1.7. Hoàn cảnh gia đình của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011 (Trang 26)
Bảng 1.8. Cơ cấu theo địa bàn cư trú của người phạm tội hiếp dâm trẻ em  trên địa bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011 - Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học
Bảng 1.8. Cơ cấu theo địa bàn cư trú của người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011 (Trang 28)
Bảng 1.9. So sánh tỉ lệ người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên 100.000 dân   của từng địa phương trong tỉnh Đồng Nai từ năm 2007 đến 2011 - Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học
Bảng 1.9. So sánh tỉ lệ người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên 100.000 dân của từng địa phương trong tỉnh Đồng Nai từ năm 2007 đến 2011 (Trang 31)
Bảng 1.10. Mối quan hệ giữa người phạm tội hiếp dâm trẻ em và nạn nhân trên   địa bàn bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011 - Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh đồng nai dưới góc độ tội phạm học
Bảng 1.10. Mối quan hệ giữa người phạm tội hiếp dâm trẻ em và nạn nhân trên địa bàn bàn Đồng Nai do TAND tỉnh xử sơ thẩm từ năm 2007 đến 2011 (Trang 34)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w