Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, có một số đề tài nghiên cứu về pháp luật thuế TNCN nhƣ
Bài viết đề cập đến các công trình nghiên cứu quan trọng về thuế thu nhập cá nhân (TNCN) tại Việt Nam, bao gồm luận án Phó tiến sĩ của Vũ Văn Tường năm 1995 với tiêu đề "Thuế TNCN và định hướng hoàn thiện", luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Trọng Hạnh năm 2001 mang tên "Thuế TNCN đối với người có thu nhập cao", và đề tài chuyên khảo của PGS.TS Lê Văn Ái-Đỗ Đức Minh năm 2002 về "Thuế TNCN trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam" Những nghiên cứu này đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về chính sách thuế TNCN và hướng phát triển trong tương lai.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về thuế thu nhập cá nhân (TNCN), có nhiều luận văn quan trọng đã được thực hiện Đầu tiên, luận văn Thạc sĩ Luật học của Phan Phương Nam năm 2006 tập trung vào nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế TNCN Tiếp theo, Trần Thị Ánh Minh đã trình bày luận văn cử nhân năm 2008, đề cập đến luật thuế TNCN và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn Cuối cùng, Lê Thị Thu Sang cũng đã nghiên cứu quy định của pháp luật thuế TNCN về giảm trừ gia cảnh trong luận văn cử nhân năm 2009 Những công trình này góp phần quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về hệ thống thuế TNCN tại Việt Nam.
Các tác giả đã tiến hành nghiên cứu và phân tích nhiều khía cạnh liên quan đến pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN), đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện quy định về thuế này Tuy nhiên, theo khảo sát của tác giả, hiện chưa có bất kỳ đề tài hay công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ công nhân viên (CNV).
Mục đích, đối tƣợng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống các cơ sở lý luận, nhằm làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến thuế thu nhập cá nhân (TNCN).
Bài viết phân tích thu nhập từ công việc (CNV) và các quy định pháp luật liên quan đến thuế thu nhập cá nhân (TNCN), nhấn mạnh những hạn chế và bất cập trong việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn Tác giả nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ CNV, hệ thống quy định của Luật thuế TNCN 2007 và các văn bản hướng dẫn liên quan Đồng thời, bài viết chỉ ra những khó khăn trong điều kiện kinh tế - xã hội khi thực thi pháp luật thuế TNCN và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện cả về lý luận lẫn pháp luật trong lĩnh vực thuế TNCN đối với thu nhập từ CNV.
Trong luận văn cử nhân luật, tác giả tập trung nghiên cứu quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) liên quan đến thu nhập từ chuyển nhượng vốn góp tại các tổ chức và chứng khoán Nghiên cứu này chỉ giới hạn ở các vấn đề quản lý thuế TNCN như đăng ký và cấp mã số thuế, khấu trừ thuế, khai thuế, nộp thuế và quyết toán thuế, mà không đề cập đến các nội dung liên quan đến thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên lý luận chung của Chủ nghĩa Mac-Lê nin, tác giả đã áp dụng phương pháp phân tích để làm rõ nội dung và quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) liên quan đến thu nhập từ công việc Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu pháp luật thuế TNCN về thu nhập từ công việc với quy định của một số quốc gia khác và các lĩnh vực pháp luật liên quan Cuối cùng, tác giả đã áp dụng phương pháp chứng minh để khẳng định các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực thuế TNCN.
Ý nghĩa khoa học vá giá trị ứng dụng của đề tài
4 Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn đƣợc thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, tác giả về cơ bản làm rõ những vấn đề lý luận chung về thu nhập từ
CNV-đối tƣợng chịu thuế TNCN, qua đó khẳng định sự cần thiết của việc xác định thu nhập từ CNV là đối tƣợng chịu thuế TNCN
Tác giả đã hệ thống hóa các quy định pháp luật về thuế thu nhập cá nhân (TNCN) liên quan đến thu nhập từ công việc, bao gồm đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế và quản lý thuế TNCN Bên cạnh đó, bài viết còn tham khảo pháp luật của một số quốc gia khác về các vấn đề liên quan, từ đó cung cấp cái nhìn toàn diện về quy định pháp luật trong lĩnh vực thuế TNCN.
Bài viết phân tích những bất cập trong nền kinh tế xã hội Việt Nam ảnh hưởng đến việc thực thi quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN), đặc biệt là thuế TNCN đối với thu nhập từ công việc Tác giả cũng đưa ra các kiến nghị nhằm khắc phục những vấn đề này, nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật thuế TNCN.
Phân tích những hạn chế của đội ngũ cán bộ thuế là cần thiết để nâng cao chất lượng quản lý thuế thu nhập cá nhân (TNCN), đặc biệt là thuế TNCN đối với thu nhập từ công việc Những hạn chế này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thu thuế và công tác quản lý, do đó cần có các kiến nghị hoàn thiện nhằm cải thiện năng lực và hiệu quả của đội ngũ cán bộ thuế.
Thứ năm, tác giả phân tích những bất cập liên quan đến đối tƣợng chịu thuế
TNCN từ CNV trong hệ thống pháp luật thuế TNCN hiện hành từ đó đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện
Thứ sáu, tác giả phân tích những bất cập trong quy định hiện hành về phương pháp nộp thuế TNCN từ CNV và kiến nghị hoàn thiện
Thứ bảy, tác giả phân tích những hạn chế trong quy định về mức thuế suất thuế
TNCN đối với thu nhập từ CNV và kiến nghị hoàn thiện trên cơ sở có tham khảo về quy định này trong pháp luật một số nước
Tác giả chỉ ra những bất cập trong quy định xác định giá bán, giá mua vốn góp và chứng khoán khi tính thu nhập chịu thuế, đồng thời đề xuất các giải pháp hoàn thiện nhằm cải thiện tình hình này.
Nghiên cứu của luận văn cung cấp giá trị khoa học và có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho các tổ chức và cá nhân quan tâm đến thuế thu nhập cá nhân (TNCN) liên quan đến thu nhập từ công việc Đặc biệt, thông qua việc phân tích những bất cập trong quy định pháp luật thuế TNCN hiện hành và đề xuất giải pháp hoàn thiện, tác giả hy vọng luận văn sẽ hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung pháp luật thuế TNCN, đặc biệt là đối với thu nhập từ công việc.
Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có bố cục gồm hai chương
Chương 1: Lý luận chung về thu nhập từ CNV và quy định của pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ CNV
Chương 2: Bài viết này phân tích những bất cập và hạn chế trong việc áp dụng quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với thu nhập từ công việc làm, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế TNCN Việc hiểu rõ những vấn đề hiện tại sẽ giúp cải thiện hiệu quả quản lý thuế và đảm bảo công bằng trong nghĩa vụ thuế của người lao động.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NHẬP TỪ CHUYỂN NHƯỢNG VỐN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ CHUYỂN NHƢỢNG VỐN
Những vấn đề lý luận chung về thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn
1.1.1 Khái niệm thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn
Khái niệm thu nhập từ CNV là một yếu tố quan trọng cần làm rõ trong khóa luận để đáp ứng các yêu cầu của luận văn Mặc dù khái niệm này chưa được định nghĩa cụ thể trong từ điển hay quy định pháp luật, nhưng từ góc độ ngôn ngữ, nó có thể được hiểu một cách nhất quán để phục vụ cho việc nghiên cứu và phân tích.
Thu nhập là “các khoản thu được trong một khoảng thời gian nhất định thường tính theo tháng, năm” 2
Chuyển nhượng không chỉ đơn thuần là "chuyển quyền sở hữu", mà còn bao gồm cả các hoạt động như tặng cho, nơi cũng có sự chuyển quyền sở hữu Để có khái niệm chính xác, chuyển nhượng nên được hiểu là việc chuyển quyền sở hữu thông qua hợp đồng chuyển nhượng có đền bù.
Vốn được định nghĩa là số tài sản ban đầu được đầu tư vào sản xuất và kinh doanh nhằm tạo ra lợi nhuận Tuy nhiên, cần hiểu vốn không chỉ đơn thuần là tiền mà còn bao gồm tất cả các tài sản khác được sử dụng trong quá trình sản xuất và kinh doanh để đạt được lợi ích kinh tế.
Dưới góc độ ngôn ngữ, thu nhập từ công nghiệp và thương mại (CNV) được hiểu là các khoản thu nhập phát sinh khi thực hiện chuyển nhượng quyền sở hữu đối với tài sản đã đầu tư ban đầu trong quá trình sản xuất và kinh doanh.
Theo quy định của pháp luật thuế TNCN, thu nhập từ công việc (CNV) không được định nghĩa cụ thể mà chỉ được liệt kê các loại thu nhập liên quan Điều này có nghĩa là pháp luật hiện hành chủ yếu sử dụng phương pháp liệt kê để xác định các khoản thu nhập từ CNV mà người lao động phải chịu thuế.
2 TS Chu Bích Thu, PGS.TS Nguyễn Ngọc Trâm, TS Nguyễn Thị Thanh Nga, TS Nguyễn Thúy
Khanh,TS Phạm Hùng Việt (2002), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học
3 TS Chu Bích Thu, PGS.TS Nguyễn Ngọc Trâm, TS Nguyễn Thị Thanh Nga, TS Nguyễn Thúy
Khanh,TS Phạm Hùng Việt, tlđd
4 TS Chu Bích Thu, PGS.TS Nguyễn Ngọc Trâm, TS Nguyễn Thị Thanh Nga, TS Nguyễn Thúy
Khanh,TS Phạm Hùng Việt, tlđd
Thông tư số 84/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế TNCN và Nghị định số 100/2008/ND-CP quy định rằng thu nhập từ chuyển nhượng vốn góp và chứng khoán của cá nhân được xem là thu nhập từ CNV Cụ thể, thu nhập này bao gồm tiền lãi từ việc chuyển nhượng phần vốn góp trong các loại hình doanh nghiệp như công ty TNHH, công ty hợp danh, công ty cổ phần, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp tác xã, và các tổ chức kinh tế khác Ngoài ra, thu nhập từ việc chuyển nhượng cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại chứng khoán khác cũng được tính vào thu nhập từ CNV.
Thu nhập từ CNV, theo góc độ ngôn ngữ và quy định pháp luật, được hiểu là khoản tiền lãi thu được từ hoạt động CNV, bao gồm việc chuyển nhượng phần vốn góp tại các tổ chức, chuyển nhượng chứng khoán và các hình thức chuyển nhượng vốn khác.
1.1.2 Đặc điểm của thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn
1.1.2.1 Thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn mang lại lợi ích cho chủ sở hữu thu nhập
Trong xã hội, thu nhập của con người rất đa dạng, bao gồm thu nhập từ lao động, sản xuất kinh doanh, tài sản, thừa kế, và quà tặng Dù nguồn gốc khác nhau, tất cả đều mang lại lợi ích nhất định cho người sở hữu, thể hiện qua giá trị hoặc quyền lợi vật chất Lợi ích này có thể là tiền lương, tiền công từ lao động, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, hoặc quyền được chăm sóc sức khỏe, vui chơi, thể thao, giải trí, và thẩm mỹ do người sử dụng lao động cung cấp.
Thu nhập từ hoạt động CNV (công nghiệp và vận tải) có đặc điểm chung với các loại thu nhập khác, cho phép chủ sở hữu tái đầu tư số thu nhập này để tìm kiếm thêm nguồn thu nhập mới.
5 Khoản 4 , Mục II, Phần A Thông tư 84/2008/TT-BTC
Có 8 cách sử dụng nó để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cá nhân và gia đình Tất cả các hoạt động này đều mang lại những lợi ích nhất định cho chủ sở hữu, góp phần tăng thu nhập.
1.1.2.2 Thu nhập từ chuyển nhượng vốn là khoản thu nhập không thường xuyên
Có nhiều cách phân loại thu nhập tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu Dựa vào tính chất đều đặn của thu nhập, có thể chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên Thu nhập thường xuyên là những khoản thu nhập ổn định, lặp lại theo chu kỳ nhất định, trong khi thu nhập không thường xuyên là những khoản thu nhập phát sinh ngẫu nhiên và không đều đặn.
Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phiếu và các hình thức khác là khoản tiền lãi mà nhà đầu tư nhận được Mục tiêu chính của nhà đầu tư khi góp vốn vào tổ chức kinh tế là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, chứ không phải là việc chuyển nhượng vốn để thu lợi từ chênh lệch giá Tuy nhiên, quyền chuyển nhượng vốn góp có thể bị hạn chế trong một khoảng thời gian nhất định, như trường hợp cổ đông sáng lập của công ty cổ phần chỉ được chuyển nhượng cổ phần sau ba năm với sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông Do đó, việc chuyển nhượng vốn góp không phải là hoạt động thường xuyên của nhà đầu tư, dẫn đến thu nhập từ hoạt động này cũng mang tính không thường xuyên.
Thu nhập từ chuyển nhƣợng CK của nhà đầu tƣ cá nhân cũng mang tính không thường xuyên bởi lẽ:
6 PGS.TS.Lê Văn Ái, TS.Đỗ Đức Minh (2002), Thuế TNCN và định hướng vận dụng ở Việt Nam, Nxb Tài chính, tr.10
7 Khoản 5, Điều 84 Luật Doanh nghiệp 2005
Trong số các nhà đầu tư cá nhân, số lượng nhà đầu tư chứng khoán "thực thụ" hiện nay rất hạn chế, phần lớn họ thường chỉ theo chân các đại gia để lướt sóng theo từng thời vụ.
Khi tham gia vào thị trường chứng khoán, cá nhân đầu tư thường xuyên thực hiện chuyển nhượng chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá Tuy nhiên, việc đạt được thu nhập từ hoạt động này không thể đảm bảo, do thị trường chứng khoán tiềm ẩn nhiều rủi ro Mặc dù có thể có lợi nhuận từ chuyển nhượng, nhưng không ít trường hợp nhà đầu tư phải chịu lỗ nặng, thậm chí khi đã biết trước sẽ thua lỗ vẫn quyết định giao dịch để cắt lỗ, vì thời gian giữ lâu chỉ làm lỗ nặng thêm Do đó, thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán không thể coi là đều đặn hay theo chu kỳ.
Việc phân chia thu nhập thành thường xuyên và không thường xuyên là tương đối, ví dụ như thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán có thể được coi là thường xuyên nếu cá nhân đó là nhà đầu tư chuyên nghiệp với chiến lược kinh doanh rõ ràng Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, trường hợp này không phổ biến, và thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán chủ yếu vẫn mang đặc trưng của thu nhập không thường xuyên.
1.1.3.1 Lịch sử pháp luật thuế TNCN trong việc quy định thu nhập từ CNV là đối tƣợng chịu thuế TNCN
Sự cần thiết trong việc xác định thu nhập từ CNV là đối tƣợng chịu thuế TNCN 12 1.2 Quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn 15
Xã hội ngày càng phát triển với thu nhập của người dân tăng và đa dạng, không chỉ từ lao động truyền thống mà còn từ các nguồn thu nhập không thường xuyên như chuyển nhượng chứng khoán Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, đặc biệt từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM được thành lập, đã làm gia tăng tầm quan trọng của các nguồn thu nhập này Để phù hợp với xu hướng phát triển, pháp luật cần điều chỉnh, trong đó việc mở rộng diện thuế thu nhập cá nhân để bao gồm thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán là cần thiết Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho xã hội và nhà nước mà còn đảm bảo công bằng xã hội, tạo tâm lý thoải mái cho người nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
Thu nhập từ chứng khoán (CNV) chỉ trở thành đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) khi Luật thuế TNCN được ban hành Trước đó, thu nhập này không bị điều tiết do được xem là không phổ biến và nhằm khuyến khích sự phát triển của thị trường vốn trong giai đoạn đầu gặp nhiều khó khăn Hiện nay, khi thu nhập từ CNV ngày càng gia tăng, việc áp dụng thuế TNCN trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Nghị quyết số 32/2009/QH12 điều chỉnh mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu kinh tế, ngân sách nhà nước cho năm 2009 Nghị quyết này cũng đề cập đến việc phát hành bổ sung trái phiếu Chính phủ và các biện pháp miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân nhằm hỗ trợ người dân và thúc đẩy nền kinh tế.
Trong bối cảnh thu nhập từ CNV ngày càng chiếm ưu thế và thị trường vốn phát triển mạnh mẽ, việc nhà nước điều tiết thu nhập này qua pháp luật thuế TNCN là cần thiết Điều này không chỉ đảm bảo nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế mà còn giúp người nộp thuế từ kinh doanh, tiền lương, tiền công cảm thấy công bằng hơn khi thực hiện nghĩa vụ thuế Hơn nữa, việc điều tiết này sẽ góp phần tăng thu ngân sách nhà nước, kiểm soát thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thuế đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu ngân sách nhà nước, với tỷ trọng thu từ thuế chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách hàng năm Trong số các loại thuế, thuế thu nhập cá nhân (TNCN) cũng góp phần không nhỏ vào ngân sách Theo số liệu năm 2009, tổng thu từ thuế đạt 370.033 tỷ VNĐ, trong đó thu từ thuế TNCN là 14.329 tỷ VNĐ, chiếm 3,87% Năm 2010, tổng thu từ thuế tăng lên 481.262 tỷ VNĐ, với thu từ thuế TNCN đạt 26.288 tỷ VNĐ, chiếm 5,46% Khi luật thuế TNCN quy định thu nhập từ công nhân viên là đối tượng chịu thuế, điều này càng khẳng định vai trò của thuế TNCN trong việc đóng góp vào ngân sách nhà nước, và dự kiến sẽ tăng theo sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) không chỉ đóng góp vào ngân sách nhà nước mà còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế Bằng cách tác động trực tiếp đến thu nhập cá nhân, thuế TNCN gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng chi tiêu và tiết kiệm của người dân, từ đó góp phần ổn định và phát triển kinh tế.
13 Tập thể tác giả (2009), Tập bài giảng Luật thuế, Trường đại học Luật Tp.HCM, Tr.14
14 Nguồn: http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1351583/2126549?p_folder_id"01709&p_recurren t_news_id845199
15 Nguồn: http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1670950?p_pers_id!77070&p_folder_id"01649
Việc giảm nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của cá nhân có thể ảnh hưởng đến hoạt động tiết kiệm và thị trường Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các quy định về thuế suất, đối tượng chịu thuế và ưu đãi thuế Trong bối cảnh suy thoái kinh tế, nhà nước có thể áp dụng mức thuế suất thấp hơn hoặc miễn thuế cho thu nhập từ công việc nhà nước nhằm kích thích đầu tư và ổn định nền kinh tế Bên cạnh đó, để khuyến khích đầu tư dài hạn, mức thuế suất cũng có thể được điều chỉnh thấp hơn cho những cá nhân nắm giữ vốn lâu hơn.
Việc quy định thu nhập từ công nhân viên chức (CNV) là đối tượng chịu thuế không chỉ tạo nguồn thu ngân sách nhà nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, mà còn giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra và giám sát thu nhập cá nhân hiệu quả hơn Bổ sung đối tượng này cùng với các đối tượng chịu thuế khác sẽ giúp bao quát toàn bộ thu nhập của cá nhân Thông qua các quy định chặt chẽ về đăng ký, kê khai, nộp và quyết toán thuế, cơ quan thuế có khả năng phát hiện sự chênh lệch giữa thu nhập kê khai và thu nhập thực tế, từ đó phối hợp với các cơ quan liên quan để xác định tính hợp pháp của các khoản thu nhập và xử lý kịp thời các vi phạm Điều này cũng tạo cơ hội cho người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước.
Nhà nước sử dụng thuế để chi tiêu cho các dịch vụ công cộng, thay vì chỉ phục vụ cho lợi ích cá nhân Người dân chuyển một phần thu nhập của mình cho nhà nước, giúp tạo ra lợi ích cho toàn xã hội Chi tiêu cá nhân có thể chỉ mang lại lợi ích cho một người, thậm chí gây ảnh hưởng xấu đến người khác, trong khi chi tiêu của Chính phủ góp phần gia tăng lợi ích công cộng Việc chuyển đổi một phần chi tiêu cá nhân sang chi tiêu công cộng là một hành động tích cực và cần thiết.
16 Phan Phương Nam (2006), Luận văn Thạc sĩ Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế TNCN, Tr.36
17 Nguyễn Hồng Thắng (1995), Thuế, Nxb Thống kê, Tr.64
Theo quy định, cá nhân có thu nhập từ công việc phải nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) cho Nhà nước Điều này không chỉ tạo điều kiện cho cá nhân thực hiện những hành động có ý nghĩa mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội.
Luật thuế TNCN không chỉ mang lại lợi ích thiết thực mà còn đưa pháp luật Việt Nam gần hơn với thông lệ quốc tế, khi quy định thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán (CK) là đối tượng chịu thuế TNCN Điều này phù hợp với quy định của nhiều quốc gia như Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc và Thái Lan, nơi thu nhập từ chuyển nhượng CK cũng nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật thuế TNCN.
Phần 1.1 trình bày các vấn đề lý luận quan trọng, tạo nền tảng cho việc nghiên cứu quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) liên quan đến thu nhập từ công việc trong phần 1.2.
1.2 Quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn
1.2.1 Đối tƣợng nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn
Mỗi loại thuế đều có quy định về đối tượng nộp thuế, xác định ai có nghĩa vụ đăng ký, kê khai và nộp thuế Đối với thuế thu nhập cá nhân (TNCN), quy định nêu rõ cá nhân nào phải thực hiện nghĩa vụ này Theo Điều 2, khoản 1 của Luật thuế TNCN, đối tượng nộp thuế TNCN bao gồm cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, cùng với cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam Do đó, đối tượng nộp thuế TNCN từ công việc (CNV) là cá nhân cư trú và không cư trú có thu nhập từ CNV phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) từ công việc bao gồm cả cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú có hoạt động tạo ra thu nhập.
Phạm vi xác định thu nhập từ công việc cá nhân (CNV) khác nhau tùy thuộc vào tình trạng cư trú Đối với cá nhân cư trú, thu nhập được xác định từ cả trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, trong khi đối với cá nhân không cư trú, thu nhập chỉ tính từ Việt Nam Việc xác định cá nhân cư trú hay không là yếu tố quan trọng trong việc nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN), theo nguyên tắc đánh thuế phổ biến hiện nay Tuy nhiên, định nghĩa về đối tượng cư trú khác nhau giữa các quốc gia Nhiều quốc gia sử dụng tiêu thức thời gian để xác định cư trú, ví dụ như tại Pháp yêu cầu sống từ 183 ngày trở lên, Nhật Bản yêu cầu cư trú liên tục trên 5 năm, và Hàn Quốc yêu cầu từ 1 năm trở lên Ngoài tiêu thức thời gian, các yếu tố như có nhà ở cố định, hoạt động nghề nghiệp, và trung tâm lợi ích kinh tế cũng được xem xét để xác định tình trạng cư trú của cá nhân.
Theo pháp luật thuế TNCN Việt Nam, cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau 20 :
Thu nhập chịu thuế - Thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn
Trong văn bản luật thuế, quy định về đối tượng chịu thuế là nội dung bắt buộc, hiểu đơn giản là hàng hóa, dịch vụ, tài sản, thu nhập hoặc lợi ích vật chất mà sắc thuế tác động đến, dẫn đến nghĩa vụ nộp thuế Đối với thu nhập cá nhân, thu nhập chịu thuế TNCN là những khoản thu nhập mà thuế này tác động, tạo ra nghĩa vụ nộp thuế cho cá nhân Tùy thuộc vào mô hình đánh thuế, thu nhập chịu thuế có thể được xác định theo từng loại thu nhập hoặc tổng hợp các loại thu nhập của cá nhân Về lý thuyết, có ba mô hình đánh thuế TNCN: đánh thuế theo từng nguồn thu nhập, đánh thuế trên tổng thu nhập và đánh thuế hỗn hợp.
24 Công văn số 2220/TCT-TNCN ngày 22/06/2010 của Tổng cục Thuế về xác định đối tượng cư trú của người nước ngoài
25 Tập thể tác giả(2009), Tập bài giảng Luật thuế, Đai học Luật Tp.HCM, tr.30
26 PGS.TS Lê Văn Ái, TS.Đỗ Đức Minh(2002), sđd, tr19
Thu nhập chịu thuế được hình thành từ 19 nguồn khác nhau trong kỳ tính thuế, với mỗi loại thu nhập áp dụng mức thuế suất riêng tùy thuộc vào bản chất của nó Mô hình đánh thuế có thể là tổng thu nhập, trong đó thu nhập chịu thuế được tính là tổng hợp các loại thu nhập và áp dụng một biểu thuế chung, hoặc mô hình hỗn hợp, nơi mỗi loại thu nhập được xác định và đánh thuế riêng, sau đó tổng hợp lại để đánh thuế một lần nữa Mặc dù mỗi mô hình có ưu nhược điểm riêng, thu nhập chịu thuế vẫn được xác định là thu nhập ròng của cá nhân trong kỳ tính thuế Tại Việt Nam, Luật thuế TNCN hiện hành áp dụng mô hình đánh thuế theo từng nguồn thu nhập, dẫn đến việc thu nhập từ các nguồn khác nhau có cách xác định và mức thuế suất khác nhau Mặc dù mô hình này không hoàn toàn công bằng, nhưng nó đơn giản và phản ánh đúng định hướng điều tiết của nhà nước đối với từng loại thu nhập.
Thu nhập chịu thuế TNCN phải được xác định là thu nhập ròng của cá nhân trong kỳ tính thuế, theo nguyên tắc trừ đi các chi phí cần thiết liên quan đến việc tạo ra thu nhập Trong số các loại thu nhập chịu thuế, thu nhập từ công việc cũng được xem là thu nhập ròng và được xác định dựa trên hoạt động công việc của cá nhân.
Theo Khoản 2, Điều 6 Nghị Định số 100/2008/NĐ-CP, thu nhập tính thuế của cá nhân có thu nhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công được xác định bằng tổng thu nhập chịu thuế từ kinh doanh cộng với thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công, sau khi trừ đi các khoản quy định tại điểm a, b, c khoản 1 của điều này.
28 Khoản 4, Điều 3, Luật thuế TNCN, khoản 4, Điều 3 Nghị định 100/2008/NĐ-CP xác định thu nhập từ CNV là đối tượng chịu thuế TNCN
29 PGS.TS Lê Văn Ái, TS.Đỗ Đức Minh(2002), sđd, tr144
Theo quy định tại Điều 84, thu nhập từ CNV được định nghĩa là "khoản tiền lãi nhận được từ việc CNV của cá nhân" Điều này đồng nghĩa với việc khái niệm thu nhập ròng được xem như tiền lãi từ hoạt động CNV Thu nhập từ CNV bao gồm các khoản thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp trong các tổ chức kinh tế, chuyển nhượng chứng khoán và các hình thức chuyển nhượng vốn khác.
Trong phần 1.2.3, tác giả sẽ trình bày cách xác định thu nhập từ chuyển nhượng vốn góp (CNV) thông qua việc phân tích các quy định pháp luật liên quan đến vốn góp và chứng khoán (CK), cùng với những khác biệt cơ bản giữa chúng Bài viết cũng sẽ xem xét các quy định về hoạt động chuyển nhượng vốn góp trong các tổ chức và chuyển nhượng CK, nhằm làm rõ trường hợp nào thu nhập phát sinh được coi là thu nhập từ CNV và thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) Thêm vào đó, tác giả sẽ phân loại thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp và thu nhập từ chuyển nhượng CK.
Vốn góp trong các tổ chức và hoạt động chuyển nhượng phần vốn góp trong các tổ chức
Phần vốn góp trong một tổ chức phản ánh tỷ lệ vốn mà các chủ sở hữu đang nắm giữ Theo quy định của pháp luật thuế TNCN, phần vốn góp này bao gồm vốn góp trong các loại hình doanh nghiệp như công ty TNHH, công ty hợp danh, công ty cổ phần, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp tác xã và các tổ chức kinh tế khác.
Có nhiều phương thức để trở thành chủ sở hữu hợp pháp đối với phần vốn góp của một tổ chức, bao gồm tham gia góp vốn khi thành lập, nhận chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho hoặc nhận gán nợ Trong số đó, góp vốn khi thành lập tổ chức được coi là phương thức cơ bản, là nền tảng cho các phương thức khác Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của tổ chức, nhà đầu tư thường đưa tài sản vào tổ chức hoặc kêu gọi góp vốn từ các nhà đầu tư khác.
30 Khoản 4 , Mục II, Phần A Thông tư 84/2008/TT-BTC.
31 Khoản 4, Điều 3 Luật thuế TNCN và khoản 4, Điều 3 Nghị định số 100/2008/NĐ-CP
32 Điểm 4.1, Khoản 4 , Mục II, Phần A Thông tư 84/2008/TT-BTC
Tài sản góp vốn có thể là tài sản hữu hình như tiền, ngoại tệ tự do chuyển đổi, hoặc giá trị quyền sử dụng đất, cũng như tài sản vô hình như giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ và bí quyết kỹ thuật Quyền sở hữu phần vốn góp của nhà đầu tư sẽ được ghi nhận dưới các hình thức khác nhau Cụ thể, khi góp vốn vào công ty TNHH từ hai thành viên trở lên hoặc công ty hợp danh, quyền sở hữu được xác nhận qua giấy chứng nhận phần vốn góp Đối với công ty cổ phần (CTCP), quyền sở hữu được ghi nhận qua cổ phiếu nếu công ty đã phát hành cổ phiếu cho số cổ phần được bán, hoặc trong sổ đăng ký cổ đông Nếu góp vốn thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh, quyền sở hữu sẽ được ghi nhận trong nội dung hợp đồng.
Nhà đầu tư, cả cá nhân lẫn tổ chức, đều có quyền chuyển nhượng phần vốn góp khi cần thiết, bên cạnh những nghĩa vụ của họ Mặc dù mục đích chính của việc góp vốn là tham gia quản lý và hưởng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, nhưng trong trường hợp cần rút vốn để đầu tư vào lĩnh vực khác, hoặc khi lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh không còn hấp dẫn, nhà đầu tư có thể sử dụng quyền chuyển nhượng để đáp ứng nhu cầu cá nhân Các quy định về điều kiện chuyển nhượng phần vốn góp có thể khác nhau tùy thuộc vào loại hình tổ chức Khi đã đáp ứng đủ điều kiện, nhà đầu tư có thể thực hiện chuyển nhượng và nếu phát sinh thu nhập, sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Pháp luật thuế TNCN không đưa ra quy định cụ thể về việc chuyển nhượng phần vốn góp, nhưng theo luật dân sự, hoạt động này được xem như một hình thức mua bán tài sản.
33 Khoản 4, Điều 39 và Khoản 4 Điều 131 Luật Doanh nghiệp 2005
34 Khoản 4, Điều 87 Luật Doanh nghiệp 2005
35 Khoản 1, Điều 23 Luật Đầu tư số 59/2005/QH11
Trong giao dịch chuyển nhượng phần vốn góp, bên bán có trách nhiệm giao tài sản cho bên mua, trong khi bên mua phải nhận tài sản và thanh toán cho bên bán Đây là một giao dịch song vụ có đền bù Cần phân biệt giữa việc chuyển nhượng phần vốn góp và tặng cho phần vốn góp, vì trong trường hợp tặng cho, không có sự bồi hoàn giá trị và không mang lại quyền lợi vật chất cho người tặng Do đó, cá nhân tặng cho phần vốn góp không phải thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân đối với nhà nước.
Pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) không quy định giới hạn về chủ thể nhận chuyển nhượng, cho phép bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào tham gia Điều này bao gồm cả trường hợp tổ chức phát hành phần vốn góp, trong đó thu nhập phát sinh từ hoạt động này cũng được xem là thu nhập từ chuyển nhượng vốn, thuộc đối tượng chịu thuế TNCN.
Chứng khoán và hoạt động chuyển nhượng chứng khoán
Pháp luật thuế TNCN không định nghĩa cụ thể về chứng khoán (CK), nhưng theo quy định tại điểm 4.2, khoản 4, Mục II, Phần A TT84, CK được hiểu theo Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 và Luật sửa đổi, bổ sung số 62/2010/QH12 Theo đó, CK là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành CK có thể được thể hiện dưới dạng chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm CK hoặc chỉ số CK, hợp đồng góp vốn đầu tư và các loại CK khác.
Bộ Tài chính quy định 40
36 Điều 428 Bộ Luật Dân sự 2005
Theo Khoản 5 Điều 45 và điểm e, Khoản 1, Điều 140 của Luật Doanh nghiệp 2005, các thành viên của công ty TNHH từ 2 thành viên trở lên và thành viên góp vốn trong công ty hợp danh có quyền tặng cho phần vốn góp của mình.
Căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn
Căn cứ tính thuế trong văn bản pháp luật thuế là tập hợp các quy phạm pháp luật quy định cách xác định số tiền thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước Đây là nội dung quan trọng nhất trong văn bản pháp luật thuế, giúp cả đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế xác định phạm vi nghĩa vụ thuế.
Quyết định số 108/2008/QĐ-BTC quy định về tổ chức và quản lý giao dịch chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, nhằm tạo ra một khung pháp lý rõ ràng cho hoạt động giao dịch này Quy chế đi kèm với quyết định này cung cấp hướng dẫn cụ thể cho các bên liên quan, đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong các giao dịch chứng khoán.
Trong thực tiễn pháp luật thuế, có 25 thực tiễn nổi bật liên quan đến các tranh chấp về số thuế phải nộp, do mâu thuẫn lợi ích giữa đối tượng nộp thuế và nhà nước Do đó, việc nghiên cứu căn cứ tính thuế là rất quan trọng để xác định chính xác số tiền thuế phải nộp, đảm bảo công bằng và cân bằng lợi ích của các bên trong quan hệ thuế.
1.2.3.1 Khái niệm, thành phần căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển vốn
Căn cứ tính thuế TNCN đối với thu nhập từ CNV là tập hợp quy định pháp luật xác định số thuế mà người nộp thuế phải nộp cho ngân sách nhà nước, bao gồm thu nhập tính thuế và thuế suất áp dụng.
Căn cứ tính thuế đối với thu nhập từ công việc là yếu tố quan trọng để xác định chính xác số thuế phải nộp Cần phân biệt rõ ràng giữa thu nhập tính thuế và thu nhập chịu thuế để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thuế đúng quy định.
Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn (CNV) được hiểu là khoản thu nhập ròng từ hoạt động này, trong khi thu nhập tính thuế là một yếu tố quan trọng để xác định số thuế phải nộp Đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công, sự khác biệt giữa thu nhập tính thuế và thu nhập chịu thuế khá rõ ràng, với thu nhập tính thuế được tính bằng cách trừ các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, và các khoản giảm trừ khác từ thu nhập chịu thuế Tuy nhiên, đối với thu nhập tính thuế từ CNV, cách xác định sẽ phụ thuộc vào việc đối tượng nộp thuế là cư trú hay không cư trú Thu nhập chịu thuế từ CNV có thể là thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp hoặc chuyển nhượng chứng khoán, và thu nhập tính thuế sẽ được xác định dựa trên thu nhập chịu thuế hoặc doanh thu từ hoạt động chuyển nhượng.
44 Tập thể tác giả(2009), Tập bài giảng Luật thuế, Đai học Luật Tp.HCM, tr.34-35
45 Khoản 1, Điều 21 Luật thuế TNCN
Thuế suất đóng vai trò quan trọng trong việc xác định số thuế phải nộp, được xem như "linh hồn" của sắc thuế, phản ánh định hướng điều tiết của nhà nước Đối với thu nhập từ công nhân viên (CNV), thuế suất áp dụng là tương đối cố định, không thay đổi theo mức thu nhập, trong khi thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần Mặc dù thuế suất cố định không đảm bảo tính hợp lý trong điều tiết, nhưng trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay, việc áp dụng thuế suất này cho CNV là hợp lý do tính đơn giản và hiệu quả trong thực thi Hơn nữa, thu nhập từ CNV thường không ổn định như thu nhập từ kinh doanh, và nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, và Trung Quốc vẫn áp dụng thuế suất cố định cho loại thu nhập này Mức thuế suất đối với thu nhập từ CNV có thể là 20% hoặc 0.1%, tùy thuộc vào đối tượng nộp thuế.
Việc xác định căn cứ tính thuế cho thu nhập từ công việc cá nhân giúp người lao động tự hiểu rõ nghĩa vụ thuế của mình đối với nhà nước Đồng thời, điều này cũng hỗ trợ cơ quan thuế trong việc tính toán chính xác số thuế mà cá nhân cần nộp, từ đó nâng cao hiệu quả trong công tác thu thuế.
Trong bài viết “Phương pháp xác định thu nhập chịu thuế đối với hoạt động chứng khoán” trên trang web http://www.gdt.gov.vn/gdtLive/Trang-chu/Tin-tuc/News?contentId0932&location=tct&subContentId0934#1, bạn có thể tìm thấy thông tin chi tiết về các mức thuế suất ở nhiều quốc gia khác nhau.
1.2.3.2 Căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn của cá nhân cƣ trú
Việc xác định thu nhập tính thuế và mức thuế suất cho thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp và chuyển nhượng chứng khoán có những điểm khác biệt đáng chú ý Cụ thể, thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp sẽ được xử lý theo các quy định riêng, điều này ảnh hưởng đến cách tính thuế và mức thuế suất áp dụng.
Thu nhập tính thuế tương đương với thu nhập chịu thuế, được xác định bằng giá chuyển nhượng trừ đi giá mua của phần vốn góp cùng với các chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ công việc kinh doanh.
Giá chuyển nhượng theo quy định được xác định dựa trên giá bán ghi trong hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hợp đồng không ghi giá bán hoặc giá bán không phản ánh đúng giá thị trường Khi đó, cơ quan thuế sẽ ấn định giá dựa trên tài liệu điều tra hoặc giá chuyển nhượng của các hợp đồng tương tự Mặc dù pháp luật thuế TNCN không quy định rõ thế nào là không phù hợp với giá thị trường, mục đích chính là ngăn chặn việc ghi giá chuyển nhượng thấp hơn giá thực tế để gian lận thuế Thực tế, bên chuyển nhượng thường mong muốn giá cao hơn giá ban đầu nhưng lại lo ngại về thuế phải nộp Do đó, các bên thường thỏa thuận ghi giá thấp hơn thực tế, dẫn đến việc nộp thuế thấp hơn Quy định này lý thuyết có thể hạn chế gian lận thuế, nhưng thực tế lại khó áp dụng do thiếu quy định về cách xác định giá thị trường.
47 Điều 13, Điều 23 Luật thuế TNCN; Điều 15 Nghị định số 100/2008/NĐ-CP; Điểm 2.1, Khoản 2, Mục
2, Phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC
48 Tiết 2.1.1 a, Điểm 2.2, Khoản 2, Mục 2, Phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC
Việc xác định giá trị 28 đồng có thực sự phù hợp hay không là một vấn đề cần xem xét kỹ lưỡng Mặc dù có thể xác định giá thị trường và có lý do cho rằng giá trong hợp đồng không hợp lý, việc điều chỉnh giá lại là một quá trình phức tạp và đầy thách thức.
Giá mua phần vốn góp được xác định khác nhau tùy thuộc vào phương thức có được phần vốn Nếu chuyển nhượng vốn góp để thành lập doanh nghiệp, giá mua là giá trị phần vốn tại thời điểm góp vốn, được xác định dựa trên sổ sách kế toán và chứng từ Đối với phần vốn mua lại, giá mua là giá trị tại thời điểm mua, căn cứ vào hợp đồng mua lại Tuy nhiên, quy định hiện tại chưa tính đến trường hợp hợp đồng chuyển nhượng không ghi giá hoặc ghi giá cao hơn giá thực tế Những tình huống này có thể xảy ra do nội dung hợp đồng do các bên thỏa thuận, và nếu thiếu các điều khoản cơ bản, hợp đồng vẫn không bị xem là vô hiệu.
Các chi phí liên quan 50 là những chi phí hợp lý phát sinh từ việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm các khoản chi phí cho thủ tục pháp lý, phí và lệ phí nộp ngân sách, cùng các chi phí khác có hóa đơn, chứng từ hợp lệ liên quan trực tiếp đến chuyển nhượng vốn.
Quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn
Quản lý thuế là một lĩnh vực rộng lớn, trong bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu quản lý thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với thu nhập từ công nhân viên Các nội dung chính bao gồm đăng ký và cấp mã số thuế, khấu trừ thuế, khai thuế, nộp thuế và quyết toán thuế.
1.2.4.1 Đăng ký thuế và cấp mã số thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn
Cá nhân có thu nhập từ công việc cần đăng ký thuế để nhận mã số thuế, giúp cơ quan thuế quản lý thuế hiệu quả Mã số thuế mang lại nhiều lợi ích như giảm thuế trong trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc bệnh hiểm nghèo Ngoài ra, cá nhân có thể chọn mức thuế suất 20% cho thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán, được hoàn thuế nếu nộp thừa và tiếp cận các dịch vụ thuế nhanh chóng, thuận tiện.
Cá nhân có thu nhập từ CNV nộp hồ sơ ĐKT tại Chi cục thuế nơi cá nhân cƣ trú Hồ sơ ĐKT bao gồm 60
Tờ khai ĐKT mẫu số 01/ĐK-TNCN (Phụ lục 1) ban hành kèm theo Thông tƣ số 175/2010/NĐ-CP
Bản sao không cần công chứng chứng minh thƣ nhân dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn sử dụng
Sau khi nộp hồ sơ ĐKT, cá nhân có thu nhập từ CNV sẽ nhận được mã số thuế trong thời gian 05 ngày làm việc nếu nộp hồ sơ trực tiếp tại Chi cục Thuế, hoặc trong vòng 03 ngày nếu nộp qua hình thức khác.
60 Điều 1, Thông tư số 175/2010/NĐ-CP
Trong vòng 37 ngày làm việc, nếu hồ sơ đăng ký thuế được nộp qua hệ thống bưu điện, cơ quan thuế sẽ xem xét hồ sơ đã được kê khai đầy đủ các chỉ tiêu 61.
Tổ chức chi trả thu nhập từ cá nhân có thu nhập từ chứng khoán (CNV) cũng cần đăng ký thuế để được cấp mã số thuế 62 Những tổ chức này bao gồm công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại nơi cá nhân mở tài khoản, và doanh nghiệp phát hành chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán, cũng như không ủy quyền cho công ty chứng khoán quản lý danh sách cổ đông Việc yêu cầu đăng ký thuế và cấp mã số thuế cho các tổ chức này nhằm đảm bảo việc thực hiện các quy định pháp luật về khấu trừ thuế.
Nếu cá nhân có thu nhập từ CNV và tổ chức chi trả thu nhập đó đã đăng ký thuế cùng với mã số thuế, thì không cần phải thực hiện đăng ký mới.
Mã số thuế đƣợc cấp đƣợc tiếp tục sử dụng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế TNCN
Cá nhân có nhiều nguồn thu nhập chịu thuế chỉ cần đăng ký mã số thuế một lần Mã số thuế này sẽ được sử dụng chung để khai báo cho tất cả các khoản thu nhập.
1.2.4.2 Khấu trừ thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhƣợng vốn
Khấu trừ thuế là phương pháp mà tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập thực hiện việc trừ số thuế phải nộp từ thu nhập của đối tượng nộp thuế Phương pháp này được coi là hiệu quả trong quản lý thu nộp thuế, đặc biệt ở những nước có khả năng kiểm soát thu nhập thấp Thay vì quản lý thuế đối với tất cả cá nhân có thu nhập như phương pháp nộp trực tiếp, khấu trừ thuế cho phép cơ quan thuế chỉ cần quản lý các tổ chức chi trả thu nhập, giảm số lượng chủ thể cần quản lý, từ đó tiết kiệm chi phí và đơn giản hóa quy trình Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm là chỉ có thể quản lý các khoản thu nhập rõ ràng, còn những khoản thu nhập không rõ nguồn gốc sẽ khó kiểm soát.
61 Điều 2, Thông tư số 175/2010/NĐ-CP
62 Điều 26, Nghị định 100/2008/NĐ-CP; Mục I, Phần D Thông tư 84/2008/NĐ-CP
63 Khoản 1, Điều 27 Nghị định 100/2008/NĐ-CP
Khấu trừ thuế TNCN đối với thu nhập từ CNV có những đặc điểm sau
Đối tượng khấu trừ thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán (CK) bao gồm cả thu nhập từ CK đã đăng ký và không đăng ký, với mức thuế suất áp dụng là 20%.
Theo quy định hiện hành, thu nhập từ chuyển nhượng tất cả các loại chứng khoán (CK) bao gồm cả CK của công ty đã niêm yết, công ty đại chúng chưa niêm yết nhưng đã đăng ký giao dịch tại sàn giao dịch chứng khoán, và các CK chưa đăng ký giao dịch nhưng đã ủy quyền quản lý danh sách cổ đông cho công ty chứng khoán Đối với các tổ chức không thuộc các trường hợp trên, thu nhập từ chuyển nhượng CK cũng sẽ phải chịu khấu trừ thuế thu nhập cá nhân (TNCN).
Thu nhập từ chuyển nhượng vốn góp không phải khấu trừ thuế, và cá nhân có thu nhập từ hoạt động này sẽ nộp thuế theo phương pháp thu trực tiếp Điều này xảy ra vì đây là thu nhập chủ động, cá nhân nhận trực tiếp số tiền từ bên nhận chuyển nhượng, trong khi bên nhận cũng là tổ chức hoặc cá nhân có nhu cầu mua phần vốn góp Do đó, cơ quan thuế không thể quản lý thuế theo phương pháp khấu trừ, và việc áp dụng phương pháp thu trực tiếp là hợp lý trong trường hợp này.
Chủ thể khấu trừ thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán (CK) bao gồm các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại nơi cá nhân mở tài khoản, và doanh nghiệp phát hành chứng khoán Điều này áp dụng cho thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán, trong trường hợp tổ chức phát hành không ủy quyền cho công ty chứng khoán thực hiện giao dịch.
CK quản lý danh sách cổ đông) 65 Một cá nhân khi muốn thực hiện hoạt động mua bán
CK, dù đã niêm yết hay chưa, cần đăng ký giao dịch tại SGDCK hoặc TTGDCK thông qua công ty chứng khoán Để thực hiện giao dịch, cá nhân phải mở tài khoản tại công ty chứng khoán hoặc ngân hàng thương mại Tất cả các hoạt động thanh toán sẽ được thực hiện qua tài khoản này Cụ thể, khi một cá nhân bán chứng khoán, bên mua sẽ thanh toán qua tài khoản của bên bán tại công ty chứng khoán hoặc ngân hàng thương mại, và công ty chứng khoán hoặc ngân hàng sẽ trích tiền từ tài khoản của bên bán.
64 Điểm đ khoản 2, Điều 27 và Điểm c khoản 1, Điều 28 Nghị định 100/2008/NĐ-CP; tiết 1.2.3 1.2.3, Khoản 1, Mục II, Phần D, Thông tư 84/2008/NĐ-CP
65 Tiết 1.2.3, Khoản 1, Mục II, Phần D, Thông tư 84/2008/NĐ-CP
Theo quy định, công ty chứng khoán hoặc ngân hàng thương mại nơi cá nhân bán chứng khoán mở tài khoản là chủ thể khấu trừ thuế Tuy nhiên, việc doanh nghiệp phát hành chứng khoán hoặc công ty chứng khoán được ủy quyền quản lý danh sách cổ đông là chủ thể khấu trừ trong trường hợp chuyển nhượng chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết và chưa đăng ký giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán là không phù hợp Bởi vì, chủ thể khấu trừ phải là tổ chức chi trả thu nhập, trong khi cá nhân tham gia mua bán loại chứng khoán này không yêu cầu mở tài khoản giao dịch tại doanh nghiệp phát hành hoặc ngân hàng thương mại, do đó không thể thực hiện khấu trừ thuế.
Việc khấu trừ thuế là trách nhiệm của các tổ chức, nhưng hiện tại chưa có quy định cụ thể nào về chế tài đối với những tổ chức không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định pháp luật liên quan đến khấu trừ thuế.