NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY
Khái niệm người đại diện theo pháp luật của công ty
Để định nghĩa chính xác người đại diện theo pháp luật của công ty, cần hiểu rõ các khái niệm về đại diện, đại diện theo pháp luật và đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp Đại diện là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật, đóng vai trò trung tâm trong luật dân sự hiện đại Người đại diện theo pháp luật của công ty là một phần trong chế định đại diện, do đó, việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến người đại diện theo pháp luật của công ty yêu cầu phải nắm vững chế định đại diện.
Ngày nay, dưới nền tảng tự do ý chí, các luật gia công nhận rằng một cá nhân có thể thể hiện ý chí của mình trực tiếp hoặc thông qua người khác Tuy nhiên, khi thực hiện quyền này qua người đại diện, sẽ phát sinh các ràng buộc pháp lý giữa người đại diện và người được đại diện Để giải quyết vấn đề này, khái niệm đại diện đã được pháp luật các quốc gia định nghĩa và trở thành một chế định quan trọng trong đời sống pháp lý.
Qua khảo sát chế định đại diện ở một số quốc gia, có thể thấy rằng sự phát triển của chế định này tại châu Âu lục địa dựa trên nền tảng luật tự nhiên, trong bối cảnh thương mại hóa và công nghiệp hóa mạnh mẽ Điều này dẫn đến những vấn đề như việc giao tàu cho thuyền trưởng điều khiển và quản lý, hay thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua người đại diện Trong khi đó, ở các quốc gia theo truyền thống luật Common law, pháp luật về đại diện xuất phát từ câu châm ngôn La tinh “Qui facit per alium, facit per se”, nghĩa là hành động của một người thông qua một chủ thể được pháp luật công nhận.
1 Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật hợp đồng phần chung (Dùng cho đào tạo sau đại học), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 283
2 Lê Việt Phương (2013), Người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, tr.6
Ngô Huy Cương (2009) trong bài viết “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – Nhìn từ góc độ Luật so sánh” đã phân tích mối quan hệ đại diện, bao gồm ba bên: người ủy quyền, người đại diện và người thứ ba Quan hệ này được coi là phức tạp do sự tương tác giữa các bên liên quan.
Pháp luật dân sự toàn cầu có nhiều cách hiểu về đại diện, như quy định tại Điều 99 BLDS Nhật Bản năm 2005, nêu rõ rằng sự biểu lộ ý chí của người đại diện phải nhân danh người được đại diện trong phạm vi thẩm quyền của mình Điều này chỉ ra rằng việc trao quyền đại diện không nhất thiết phải thông qua hợp đồng, người đại diện có thể hành động ngoài lĩnh vực giao dịch dân sự, và họ cần phải thể hiện rõ ràng rằng họ đang hành động nhân danh người được đại diện.
Pháp luật Anh định nghĩa thuật ngữ "đại diện" (agency) như một mối quan hệ giữa một người có quyền lực và một người khác, cho phép người đó thiết lập mối quan hệ pháp lý với bên thứ ba Quan hệ đại diện xảy ra khi một người, gọi là người đại diện (agent), có thẩm quyền hành động thay mặt cho người khác, được gọi là người được đại diện (principal), và đồng ý thực hiện các hành động này.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, chế định đại diện bao gồm hai đặc điểm chính: trước tiên, đó là một quan hệ ưng thuận, trong đó người đại diện hành động dưới sự chỉ dẫn của người được đại diện; thứ hai, đây là một quan hệ ủy thác, nơi người đại diện hành động cho và nhân danh người được đại diện Tại Việt Nam, trong bối cảnh kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chế định đại diện chưa được chú ý đầy đủ do kinh tế tư nhân chưa phát triển, dẫn đến các mối quan hệ xã hội không phức tạp Tuy nhiên, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhu cầu về chế định đại diện ngày càng trở nên cấp thiết do sự phát triển của các quan hệ xã hội.
Hồ Ngọc Hiển (2007) trong bài viết “Nghĩa vụ người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật đã phân tích những nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền trong bối cảnh pháp luật kinh doanh của Hoa Kỳ, đồng thời so sánh với các quy định tương ứng tại Việt Nam Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự khác biệt và tương đồng giữa hai hệ thống pháp luật, từ đó giúp hiểu rõ hơn về trách nhiệm pháp lý trong hoạt động kinh doanh.
5 Lord Hailsham of St Marylebone, Lord High Chancellor of Great Britain, Halsbury’s Laws of England,
Fourth Edition, Volume I, Administrative Law, Amiralty, Affiliation and Legitimation, Agency, Agriculture, Butterworths, London, 1973, p 418
Theo Điều 139, BLDS 2005, đại diện là hành động của một người (người đại diện) thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của người khác (người được đại diện) Mục đích của quan hệ đại diện là hỗ trợ người được đại diện giao dịch với bên thứ ba thông qua người đại diện Trong quá trình này, người đại diện xác lập quyền và nghĩa vụ với bên thứ ba, tạo ra hậu quả pháp lý cho người được đại diện.
Theo Điều 148 BLDS 1995 và khoản 1 Điều 139 BLDS 2005, việc bổ sung câu “vì lợi ích của người được đại diện” nhấn mạnh trách nhiệm của người đại diện Sự bổ sung này phản ánh đúng bản chất của đại diện và tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các trường hợp mà người đại diện xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự không vì lợi ích của người được đại diện.
Khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015 định nghĩa đại diện là việc cá nhân hoặc pháp nhân (gọi chung là người đại diện) thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (gọi chung là người được đại diện) Quy định này cho phép cả cá nhân và pháp nhân có thể làm người đại diện cho nhau, khác với Điều 139 BLDS 2005 chỉ cho phép cá nhân ủy quyền cho cá nhân Sự thay đổi này phù hợp với quy định pháp luật của nhiều quốc gia, trong đó khái niệm "người" bao gồm cả cá nhân và pháp nhân, như được nêu trong từ điển Luật học của New Zealand và Bộ Luật Washington (sửa đổi).
Thuật ngữ "người" không chỉ ám chỉ đến công dân Hoa Kỳ mà còn bao gồm các cá nhân từ bất kỳ nhà nước, vùng lãnh thổ nào và các công ty công cộng.
Khái niệm đại diện của pháp luật Việt Nam đã được nghiên cứu và tiếp cận một cách hài hòa với quan niệm chung của nhiều quốc gia khác.
7 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật dân sự phần chung, NXB Hồng Đức, 2015, tr.292
8 Butterworths New Zealand Law Dictionary, 5 th Edition
Theo Bộ luật sửa đổi của Washington (RCW), khái niệm về đại diện trong pháp luật Việt Nam có nguồn gốc từ trường phái luật tự nhiên, tương tự như Bộ luật Dân sự Pháp Cụ thể, Bộ luật Dân sự Pháp quy định rằng ủy nhiệm là một hợp đồng cho phép một người giao quyền thực hiện một công việc cho người khác nhân danh mình, và người được ủy nhiệm sẽ thực hiện các hành vi pháp lý tương ứng.
Trong quan hệ đại diện, người đại diện “nhân danh” người được đại diện
“Nhân danh” thể hiện việc người đại diện thực hiện giao dịch dân sự không dưới danh nghĩa của chính mình mà thay vào đó là danh nghĩa của người được đại diện Giao dịch này sẽ là cơ sở để phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của người được đại diện Cần lưu ý rằng, mặc dù người thứ ba giao dịch với người đại diện, nhưng thực chất, quan hệ dân sự được thiết lập là giữa người được đại diện và người thứ ba.
Đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của công ty
Trên cơ sở phân tích khái niệm NĐDTPL của công ty, theo tác giả NĐDTPL của công ty như có một số đặc điểm cơ bản sau:
Người đại diện theo pháp luật (NĐDTPL) của công ty phải là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, theo quy định tại khoản 1 Điều 13, LDN 2014 Mặc dù cả cá nhân và pháp nhân đều có thể đại diện cho chủ thể khác, nhưng NĐDTPL của công ty chỉ được phép là cá nhân NĐDTPL thực hiện quyền và nghĩa vụ của công ty nhằm mang lại lợi ích cho công ty, do đó yêu cầu năng lực hành vi dân sự đầy đủ Ngoài ra, nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành còn quy định các điều kiện đặc thù về chuyên môn và bằng cấp đối với NĐDTPL.
32 Lê Việt Phương (2013), tlđd (2), tr 24
Người đại diện theo pháp luật của công ty được xác định trong Điều lệ công ty hoặc theo quy định pháp luật, đóng vai trò là văn bản điều chỉnh hoạt động của công ty Điều lệ công ty quy định cụ thể về người đại diện theo pháp luật, và nếu pháp luật có quy định cụ thể hoặc lựa chọn về vấn đề này, công ty phải tuân thủ hoặc chọn theo quy định của luật Điều này được thể hiện rõ trong quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, cụ thể là khoản 2 Điều 134, Luật Doanh nghiệp 2014.
Trong trường hợp công ty chỉ có một người đại diện theo pháp luật, Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc sẽ là người đại diện Nếu Điều lệ không quy định khác, Chủ tịch Hội đồng quản trị sẽ là người đại diện theo pháp luật Đối với công ty có hơn một người đại diện theo pháp luật, Chủ tịch Hội đồng quản trị cùng với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc sẽ đồng thời là người đại diện theo pháp luật của công ty.
NĐDTPL của công ty phải thường trú tại Việt Nam để thực hiện quyền và nghĩa vụ của công ty trong các giao dịch Điều này xuất phát từ vai trò quan trọng của NĐDTPL trong việc đại diện cho công ty, đặc biệt khi các hoạt động và giao dịch diễn ra thường xuyên Khi NĐDTPL xuất cảnh, họ cần ủy quyền cho người khác và phải chịu trách nhiệm về những nội dung đã ủy quyền.
Người đại diện theo pháp luật của công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhân danh công ty, theo phạm vi được quy định trong Điều lệ công ty Dù là cá nhân, khi đảm nhiệm vai trò này, họ không hành động nhân danh bản thân mà thay vào đó là đại diện cho công ty Ngoài việc đại diện đương nhiên, người đại diện theo pháp luật còn có thể đại diện cho chủ sở hữu công ty trong trường hợp chủ sở hữu cũng là người đại diện Mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người đại diện được coi như một hợp đồng, trong đó các cổ đông bổ nhiệm người quản lý công ty để thực hiện việc quản lý và ra quyết định liên quan đến tài sản của công ty.
33 Khoản 3, Điều 13, Luật Doanh nghiệp 2014
34 Bùi Xuân Hải, tlđd (18), tr 11-18.
Cơ sở lý luận của quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty
Vào thứ năm, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật (NĐDTPL) của công ty được xác định dựa trên Điều lệ công ty, thỏa thuận giữa chủ sở hữu và NĐDTPL, cũng như các quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với doanh nghiệp nhà nước, Bộ Luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp lý liên quan NĐDTPL không thể tự ý đặt ra quyền và nghĩa vụ cho bản thân mà chỉ được thực hiện các công việc trong phạm vi đại diện đã được quy định Nếu NĐDTPL thực hiện giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, công ty sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với phần giao dịch đó Trong trường hợp này, NĐDTPL phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với bên giao dịch về phần vượt quá, trừ khi bên giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện nhưng vẫn tiến hành giao dịch.
Tất cả các đặc điểm của NĐDTPL của công ty được thể hiện rõ ràng trong Bộ luật Dân sự (BLDS) và Luật Doanh nghiệp (LDN) Mặc dù quy định pháp luật về NĐDTPL có sự thay đổi theo thời gian, nhưng các đặc điểm cơ bản vẫn được duy trì xuyên suốt trong các văn bản pháp lý khác nhau.
1.3 Cơ sở lý luận của quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty
Quy định về NĐDTPL của công ty được xây dựng dựa trên nhiều cơ sở lý luận, trong đó lý thuyết pháp nhân đóng vai trò chủ yếu và quan trọng.
Pháp nhân được định nghĩa là một thực thể pháp lý vô hình, hình thành từ ý chí của một hoặc nhiều cá nhân Là một chủ thể độc lập, công ty có quyền lợi và nghĩa vụ riêng Vấn đề quan trọng là làm thế nào pháp nhân có thể thực hiện các quyền của mình mặc dù không có hình thể cụ thể, đây là điểm mấu chốt trong việc luận giải về NĐDTPL của công ty.
Từ giữa thế kỷ 19, các án lệ ở các nước theo truyền thống thông luật đã xác định rằng công ty hoạt động thông qua các giám đốc, và hành động của cá nhân cổ đông không ảnh hưởng đến trách nhiệm pháp lý của công ty, khẳng định công ty là một thực thể pháp lý độc lập.
Pháp nhân, hay công ty, dù được coi như một thực thể độc lập, nhưng không phải là con người cụ thể và không thể tự hành động Từ khi thành lập đến khi giải thể, công ty luôn cần sự đại diện của con người trong mọi hoạt động Năng lực hành vi của công ty thực chất là năng lực mà nó vay mượn từ những cá nhân đại diện cho pháp nhân đó.
Dựa trên nguyên tắc tự do ý chí, con người luôn yêu cầu xã hội đáp ứng nhu cầu về tự do lập hội và tự do kinh doanh Do đó, việc hình thành công ty được coi là một quan hệ hợp đồng giữa các thành viên sáng lập, nhằm tạo ra một thực thể cụ thể phục vụ cho hoạt động kinh doanh và đạt được mục tiêu chung mà các sáng lập viên đã xác định khi ký kết hợp đồng.
Sự hình thành công ty dựa trên học thuyết tự do ý chí và tự do lập hội, khẳng định quyền tự do cá nhân, trong đó không ai bị ép buộc thực hiện hành động trái với ý muốn Các cá nhân có quyền tự do lựa chọn mô hình công ty và NĐDTPL để tiến hành hoạt động kinh doanh NĐDTPL, được ủy thác bởi chủ sở hữu pháp nhân, thực hiện quyền và nghĩa vụ của người quản lý trong các hoạt động nội bộ và kinh doanh, đồng thời phải tuân thủ quy định pháp luật và quy chế công ty trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Pháp luật Việt Nam xác định pháp nhân là chủ thể pháp luật độc lập với tư cách pháp lý rõ ràng Điều 137 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định cụ thể về đại diện theo pháp luật của pháp nhân, chứng tỏ sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam và học thuyết về pháp nhân.
Lý thuyết đại diện (Agency Theory), được phát triển bởi Jensen và Meckling vào năm 1976, là một cơ sở lý luận quan trọng trong quy định NĐDTPL của công ty Lý thuyết này nghiên cứu mối quan hệ giữa bên ủy quyền và bên được ủy quyền, nhằm giải thích các vấn đề phát sinh trong sự tương tác giữa các bên liên quan.
Lý thuyết đại diện mô tả mối quan hệ giữa cổ đông và thành viên HĐQT, trong đó cổ đông ủy quyền cho HĐQT thực hiện các dịch vụ và ra quyết định thay mặt cho họ Khi cả hai bên đều mong muốn tối đa hóa lợi ích, có cơ sở để tin rằng đại diện sẽ hành động vì lợi ích của cổ đông.
Học thuyết Agency Theory giải thích mối quan hệ giữa người chủ (principal), như cổ đông, và người làm (agent), bao gồm các quản lý công ty Trong mối quan hệ này, người chủ ủy quyền cho đại diện hoặc thuê người làm để thực hiện công việc Học thuyết này giúp giải quyết hai vấn đề chính: (i) xung đột giữa mục tiêu của người chủ và người làm, được gọi là vấn đề đại lý (agency problem), và (ii) sự thống nhất giữa bên chủ và bên làm trong việc đối phó và giải quyết các rủi ro.
Lý thuyết đại diện (Agency Theory) chỉ ra rằng xung đột xuất hiện do thông tin không đầy đủ và bất cân xứng giữa chủ sở hữu và người quản lý trong công ty Cả hai bên đều có lợi ích khác nhau và mong muốn tối đa hóa lợi ích cá nhân Người quản lý có xu hướng tư lợi và có thể không đủ chăm chỉ, dẫn đến việc họ tìm kiếm lợi ích cho bản thân hoặc người thứ ba hơn là cho công ty Điều này tạo ra mâu thuẫn khi cả hai bên hành động vì lợi ích cá nhân Do đó, cổ đông cần giám sát hoạt động của người quản lý để bảo vệ quyền lợi của mình Việc giám sát này phát sinh chi phí giám sát (monitoring costs) nhằm hạn chế sai lầm của người quản lý, cùng với chi phí liên kết (bonding costs) mà các nhà quản lý phải trả để đảm bảo không gây tổn hại đến lợi ích của cổ đông.
36 Michael C Jensen and Wiliam Meckling (1976), Theory of the Firm: Managerial Behavior, Agency Cost and Ownership Structure, Journall of Financial Economics, October, 3(4), p.26
Để tối đa hóa phúc lợi của cổ đông, các nhà quản lý cần đưa ra quyết định hợp lý Một giải pháp hiệu quả là áp dụng các cơ chế thích hợp nhằm hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa cổ đông và người quản lý Điều này có thể thực hiện thông qua việc thiết lập các cơ chế đãi ngộ phù hợp cho các nhà quản trị và xây dựng hệ thống giám sát hiệu quả để ngăn chặn những hành vi tư lợi và không bình thường của người quản lý công ty.
Lý thuyết đại diện chỉ ra rằng trong nền kinh tế phát triển, quy mô và phức tạp của doanh nghiệp khiến việc điều hành trực tiếp của chủ doanh nghiệp trở nên không khả thi Điều này dẫn đến sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền kiểm soát, khi các nhà đầu tư không có khả năng quản lý thuê giám đốc để điều hành doanh nghiệp Mặc dù sự tách biệt này giải quyết mâu thuẫn giữa vốn và năng lực điều hành, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.
Vai trò của quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công
NĐDTPL của công ty là một trong những người quản lý, nhưng không phải tất cả các quản lý đều là NĐDTPL NĐDTPL có những đặc điểm riêng biệt, đặc biệt là quyền đại diện công ty trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch.
Quy định pháp luật về NĐDTPL của công ty dựa trên nhiều cơ sở lý luận, trong đó lý thuyết pháp nhân khẳng định công ty là một thực thể pháp lý không thể tự thực hiện giao dịch mà phải thông qua hành vi của cá nhân Điều này giải thích nguyên nhân sâu xa về NĐDTPL của công ty Bên cạnh đó, lý thuyết đại diện và lý thuyết quản lý cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng quy định về quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL trong công ty.
1.4 Vai trò của quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty
Việc thể chế hóa quy định về NĐDTPL trong hệ thống pháp luật doanh nghiệp là rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong quan hệ đại diện Các bên có quyền lợi liên quan bao gồm cá nhân và tổ chức tham gia vào quá trình quản trị và điều hành công ty, cũng như những người bị ảnh hưởng bởi hoạt động và quyết định của công ty Những chủ thể này bao gồm cổ đông, người lao động, chủ nợ, người quản lý, khách hàng và Nhà nước Tác giả sẽ phân tích vai trò của các bên liên quan trong bối cảnh này.
Quy định về NĐDTPL trong công ty có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nhà đầu tư, quyền lợi của công ty và bên thứ ba Những quy định này không chỉ đảm bảo sự minh bạch và công bằng trong hoạt động kinh doanh mà còn góp phần tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu tư Việc cải cách quy định này là cần thiết để nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp và thúc đẩy sự phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Thứ nhất: Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư
Nhà đầu tư của công ty bao gồm cổ đông trong công ty cổ phần và thành viên trong công ty hợp danh hoặc công ty TNHH Việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư là yếu tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế Mức độ bảo vệ nhà đầu tư có mối quan hệ nhân quả rõ ràng với sự phát triển của thị trường tài chính Trong quan hệ đại diện, nhà đầu tư ủy quyền cho người quản lý công ty điều hành hoạt động, nhưng sự xung đột lợi ích giữa nhà đầu tư và người quản lý thường xảy ra do sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý Nhà đầu tư mong muốn gia tăng giá trị công ty và giá trị cổ phiếu, trong khi người quản lý có thể hành động vì lợi ích cá nhân như lương, thưởng và các nguồn thu khác.
Quyền lợi của nhà đầu tư có thể bị ảnh hưởng khi người quản lý công ty có quan điểm khác biệt về rủi ro Rủi ro trong kinh doanh là điều không thể tránh khỏi, và nhà đầu tư cần chấp nhận cũng như kiểm soát rủi ro Tuy nhiên, do tài sản không thuộc về mình, người quản lý có thể mạo hiểm đầu tư vào các dự án rủi ro cao hoặc thậm chí là các dự án kinh doanh kém hiệu quả Nếu công ty gặp thua lỗ hoặc phá sản, trong khi người quản lý vẫn nhận được lương và trợ cấp theo quy định pháp luật, nhà đầu tư có thể mất trắng tài sản của mình.
Sự bất cân xứng trong việc tiếp cận thông tin giữa người quản lý công ty và cổ đông là một vấn đề quan trọng, khi mà người quản lý thường nắm bắt được nhiều thông tin hơn về tình hình hoạt động của công ty so với cổ đông.
45 Bùi Xuân Hải (2011), Luật Doanh nghiệp: Bảo vệ cổ đông – Pháp luật và thực tiễn, NXB Hồng Đức, tr.145
46 Bùi Xuân Hải (2007), tlđd (18), tr.11-18
Các nhà đầu tư có quyền tiếp cận thông tin của công ty, nhưng thường bị hạn chế bởi nguồn thông tin chủ yếu từ người quản lý Báo cáo tài chính và cáo bạch không cung cấp đầy đủ thông tin, tạo điều kiện cho người quản lý tư lợi thông qua các giao dịch với bên liên quan, chuyển giá, tiết lộ thông tin bảo mật và pha loãng cổ phần.
Dựa trên các phân tích đã trình bày, có thể kết luận rằng nhà đầu tư cần được pháp luật bảo vệ trong mối quan hệ đại diện, thông qua việc thiết lập các quy định về NĐDTPL của công ty.
Thứ hai: Bảo vệ công ty:
Công ty không thể tự mình thực hiện các giao dịch mà phải thông qua người đại diện theo pháp luật (NĐDTPL), cho thấy vai trò quan trọng của NĐDTPL trong sự phát triển của công ty NĐDTPL quản lý và điều hành hiệu quả các hoạt động sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả công ty lẫn nhà đầu tư Ngược lại, nếu NĐDTPL không thực hiện tốt nhiệm vụ hoặc có hành vi trục lợi, lợi ích của công ty sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Để bảo vệ quyền lợi của công ty, pháp luật cần quy định rõ ràng và chặt chẽ trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của người quản lý, từ đó tạo cơ sở pháp lý buộc họ hành xử đúng đắn và ngăn chặn khả năng tư lợi Đây là một trong những vai trò quan trọng của các quy định pháp luật liên quan đến đầu tư và phát triển trong công ty.
Nghĩa vụ của người quản lý công ty được quy định rõ ràng trong pháp luật của nhiều quốc gia Tại Hoa Kỳ, người quản lý công ty có hai nghĩa vụ cơ bản: hành động trung thực vì lợi ích của công ty và thể hiện sự quan tâm đúng mực như một người thận trọng thông thường trong vị trí của mình Tương tự, các quốc gia theo truyền thống án lệ như Anh và Úc cũng yêu cầu người quản lý công ty phải trung thành, trung thực, cẩn trọng và không được tư lợi.
48 Nguyễn Ngọc Thanh (2010), “Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện, một số gợi ý về chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, tr.158
49 Xem Đạo Luật mẫu về công ty kinh doanh (sửa đổi), Điều 8.30 (a)
Pháp luật Việt Nam đã nỗ lực ghi nhận nghĩa vụ của người quản lý công ty thông qua việc tham khảo các quy định từ pháp luật nước ngoài, chủ yếu là từ hệ thống pháp luật công ty Anh.
Mỹ đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc xây dựng quy định pháp luật Tuy nhiên, giữa lý thuyết và thực tiễn vẫn tồn tại một khoảng cách lớn, do các nghĩa vụ pháp lý thường mang tính trừu tượng và không quen thuộc với những người thực thi pháp luật tại Việt Nam.
Thứ ba: Bảo vệ người đại diện theo pháp luật của công ty:
Trong quan hệ đại diện, NĐDTPL của công ty được quyền đại diện cho công ty thực hiện các giao dịch, mang lại lợi thế trong việc nắm bắt thông tin so với các nhà đầu tư Mặc dù NĐDTPL có nhiều cơ hội để tư lợi hơn, nhưng điều này không có nghĩa là họ không cần được bảo vệ bởi pháp luật.