1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước

112 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 112
Dung lượng 1,4 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA CÔNG DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC (12)
    • 1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (12)
      • 1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (12)
      • 1.1.2. Đặc điểm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (16)
    • 1.2. Quyền tìm kiếm thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (21)
      • 1.2.1. Chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước (21)
      • 1.2.2. Chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước (21)
      • 1.2.3. Hình thức và thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước (22)
      • 1.2.4. Phạm vi thông tin được yêu cầu cung cấp và trường hợp miễn trừ cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước (23)
    • 1.3. Quyền tiếp nhận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (25)
      • 1.3.1. Chủ thể có quyền tiếp nhận thông tin trong quản lý nhà nước (25)
      • 1.3.2. Chủ thể có trách nhiệm công khai thông tin trong quản lý nhà nước (26)
      • 1.3.3 Hình thức và thủ tục công khai thông tin trong quản lý nhà nước (26)
      • 1.3.4. Phạm vi thông tin được công khai và những thông tin không thuộc trường hợp nhà nước công bố công khai (27)
    • 1.4. Các biện pháp pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (29)
      • 1.4.1. Ban hành Luật Tiếp cận thông tin (29)
      • 1.4.2. Quy định trách nhiệm công khai thông tin trong quản lý nhà nước (31)
      • 1.4.3. Quy định cách thức, thủ tục thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin (31)
      • 1.4.4. Quy định việc khiếu nại, khởi kiện liên quan đến quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (32)
      • 1.4.5. Quy định các biện pháp xử lý hành vi vi phạm quyền tiếp cận thông tin của công dân (35)
      • 1.4.6. Quy định biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân (37)
    • 1.5. Vai trò của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (38)
      • 1.5.1. Đối với các quyền công dân khác (38)
      • 1.5.2. Đối với nền kinh tế (38)
      • 1.5.6. Đối với quá trình hội nhập quốc tế (42)
  • CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA CÔNG DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN (45)
    • 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (45)
      • 2.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền tìm kiếm thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (45)
      • 2.1.2. Thực trạng quy định pháp luật về quyền tiếp nhận thông tin của công dân (51)
      • 2.1.3. Thực trạng các biện pháp pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (59)
    • 2.2. Tình hình thực thi pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (65)
      • 2.2.1. Tình hình thực thi pháp luật về quyền tìm kiếm thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (65)
      • 2.2.2. Tình hình thực thi pháp luật về quyền tiếp nhận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (67)
    • 2.3. Một số hạn chế về thực trạng pháp luật và thực trạng thực thi pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (70)
    • 2.4. Phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (73)
      • 2.4.1. Quan điểm định hướng về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (73)
      • 2.4.2. Giải pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (76)
  • KẾT LUẬN (44)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA CÔNG DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

Khái niệm, đặc điểm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước

1.1.1 Khái niệm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước

1.1.1.1 Khái niệm quyền tiếp cận thông tin của công dân

Thông tin, theo từ điển tiếng Việt, được định nghĩa là “điều hoặc tin được truyền đi cho biết, sự truyền đạt, sự phản ánh tri thức dưới các hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung quanh và những quá trình xảy ra trong nó.” Thuật ngữ này mang tính trừu tượng và có nội hàm rộng, có thể được phân thành nhiều loại và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm cả hữu hình như sách, báo, và tập tin, cũng như vô hình như ý tưởng và cơ sở dữ liệu trên trang web.

Thông tin có thể được phân loại như sau:

+ Căn cứ vào nội dung, thông tin gồm: thông tin về kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật

+ Căn cứ vào người sở hữu, tạo ra, thông tin gồm: thông tin của Nhà nước, thông tin của cá nhân, thông tin của tổ chức

Tóm lại, thông tin là điều được truyền đi cho biết, có thể làm tăng thêm sự hiểu biết, kiến thức của một người

- Thuật ngữ tiếp cận được hiểu là: “từng bước, bằng những phương pháp nhất định, tìm hiểu một vấn đề, công việc nào đó” 2

Như vậy, tiếp cận thông tin là dùng những phương pháp, cách thức nhất định để đến gần, tiếp xúc nhằm tìm hiểu những thông tin nào đó

Quyền tiếp cận thông tin, quyền được thông tin và quyền được biết đều mang ý nghĩa tương tự, nhưng có những nhấn mạnh khác nhau Quyền tiếp cận thông tin tập trung vào tính chủ động của công dân trong việc tìm kiếm và nhận thông tin, trong khi quyền được thông tin và quyền được biết nhấn mạnh vai trò chủ động của cơ quan nhà nước trong việc đảm bảo quyền được thông tin cho công dân.

1 Trung tâm từ điển học (2011), Từ điển tiếng Việt 2011, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội, tr 1226

2 Trung tâm từ điển học (2011), Từ điển tiếng Việt 2011, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội, tr 1269

Quyền tiếp cận thông tin lần đầu tiên được ghi nhận trong Luật về tự do báo chí của Thụy Điển năm 1766 và sau đó trở nên phổ biến hơn khi Tuyên ngôn thế giới về quyền con người ra đời Điều 19 của Tuyên ngôn này, được ban hành năm 1948, khẳng định rằng "Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; bao gồm cả quyền bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp, cũng như quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá thông tin và ý tưởng qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào mà không bị giới hạn bởi biên giới."

1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ra đời cũng quy định

Mọi người đều có quyền giữ quan điểm riêng mà không bị can thiệp, đồng thời có quyền tự do ngôn luận, bao gồm việc tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến mà không bị hạn chế về lĩnh vực hay hình thức Quyền này có thể được thể hiện qua nhiều phương tiện khác nhau như lời nói, văn bản, in ấn hoặc nghệ thuật Tính đến năm 2009, đã có hơn 86 quốc gia trên thế giới ban hành Luật tiếp cận thông tin, khẳng định tầm quan trọng của quyền được thông tin trong xã hội.

Đến nay, các Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia chưa thống nhất khái niệm về quyền tiếp cận thông tin, mà chỉ đề cập đến nội hàm và các nguyên tắc liên quan Hiện có hai quan điểm khác nhau về nội hàm của quyền tiếp cận thông tin.

Quan điểm đầu tiên về quyền tiếp cận thông tin bao gồm ba quyền cơ bản: quyền tiếp nhận thông tin, quyền tìm kiếm thông tin và quyền phổ biến thông tin Tự do tìm kiếm thông tin thể hiện sự chủ động của cá nhân trong việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin mà họ quan tâm Ngược lại, tự do tiếp nhận thông tin phản ánh sự chủ động của cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin định kỳ cho công chúng, ngay cả khi không có yêu cầu từ công dân Quyền tự do phổ biến thông tin cho phép cá nhân, công dân chia sẻ và truyền đạt thông tin một cách tự do.

Viện Nghiên cứu Quyền Con Người (2007) đã công bố tài liệu "Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin", do NXB Công an Nhân dân phát hành tại Hà Nội, trang 12 Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý và tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến quyền tiếp cận thông tin.

Viện nghiên cứu quyền con người (2007) đã công bố tài liệu "Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin", xuất bản bởi NXB Công an nhân dân tại Hà Nội, trang 17 Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định quốc tế và luật pháp của một số quốc gia liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, góp phần nâng cao nhận thức về quyền con người trong lĩnh vực thông tin.

5 Nguyễn Thị Hạnh (2009), “Sự cần thiết ban hành Luật Tiếp cận thông tin”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp

Trong bài viết của Chu Thị Thái Hà (2009), tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin, cho rằng mọi người đều có quyền nhận thông tin mà không bị phân biệt về ranh giới hay hình thức truyền đạt Thông tin cần được chia sẻ một cách công bằng, đảm bảo quyền lợi của tất cả mọi người.

Theo quan điểm thứ hai, quyền tiếp cận thông tin chủ yếu liên quan đến việc tìm kiếm và nhận thông tin Hoạt động phổ biến thông tin và việc tìm kiếm này nằm trong khái niệm rộng hơn về quyền thông tin, hay còn gọi là tự do thông tin.

Theo tác giả, quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển, việc phổ biến thông tin không chỉ giúp đảm bảo quyền tiếp nhận thông tin của công dân mà còn cho phép cá nhân truyền đạt thông tin đến người khác Quyền phổ biến thông tin gắn liền với quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí Vì vậy, tác giả tập trung nghiên cứu quyền tiếp cận thông tin, bao gồm quyền tìm kiếm và tiếp nhận thông tin.

Quyền tiếp cận thông tin là quyền cơ bản của con người và công dân, bao gồm quyền tìm kiếm và tiếp nhận thông tin Quyền này được đảm bảo khi cơ quan Nhà nước thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu và công khai thông tin trong mọi trường hợp, trừ những ngoại lệ theo quy định của pháp luật.

1.1.1.2 Phân biệt giữa quyền tìm kiếm thông tin và quyền tiếp nhận thông tin

Quyền tìm kiếm thông tin và quyền tiếp nhận thông tin có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau Khi thông tin được công bố rộng rãi, việc yêu cầu cung cấp thông tin trở nên không cần thiết, và ngược lại, việc cung cấp thông tin cũng giúp công khai thông tin cho công chúng Tuy nhiên, giữa hai quyền này vẫn tồn tại những điểm khác biệt quan trọng.

7 Tường Duy Kiên (2008), “Quyền tiếp cận thông tin: Qui định quốc tế và đặc điểm chung của Luật một số nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (112 – 114)

8 Lê Thị Hồng Nhung (2011), “Tiếp cận quyền tiếp cận thông tin dưới góc độ quyền con người”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp (5), tr 22-27

Trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ, có sự phân chia rõ ràng giữa tính chủ động và bị động của các chủ thể Đối với quyền tìm kiếm thông tin, người yêu cầu phải chủ động liên hệ với cơ quan nhà nước để nhận thông tin, trong khi cơ quan nhà nước chỉ có nghĩa vụ cung cấp thông tin khi có yêu cầu Ngược lại, trong quyền tiếp nhận thông tin, cơ quan nhà nước cần chủ động công bố thông tin ra công chúng, trong khi người tiếp nhận chỉ tiếp nhận thông tin một cách bị động, bất kể nhu cầu của họ.

Sự khác biệt giữa nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong quyền tiếp nhận thông tin và quyền tìm kiếm thông tin là rất rõ ràng Trong quyền tiếp nhận thông tin, cơ quan nhà nước có trách nhiệm công khai thông tin đến công chúng thông qua các biện pháp như xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư công nghệ thông tin và lập danh mục thông tin phải công khai Tuy nhiên, các biện pháp này thường mang tính chất chung chung và không tác động trực tiếp đến người nhận thông tin Ngược lại, quyền tìm kiếm thông tin yêu cầu cơ quan nhà nước phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin khi công dân yêu cầu Nếu cơ quan không cung cấp thông tin, họ phải đưa ra lý do hợp lý.

Quyền tìm kiếm thông tin của công dân trong quản lý nhà nước

Quyền tìm kiếm thông tin của công dân trong quản lý nhà nước là khả năng của người dân trong việc truy cập và tiếp cận các thông tin, tài liệu do cơ quan hành chính nhà nước sản xuất hoặc lưu giữ.

1.2.1 Chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước

Hầu hết các quốc gia công nhận công dân là chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin, trong khi một số quốc gia cho phép cả người nước ngoài và người không có quốc tịch yêu cầu thông tin, nhưng với phạm vi hạn chế hơn.

Pháp luật của một số quốc gia quy định rằng để yêu cầu cung cấp thông tin, chủ thể phải nêu rõ lý do hoặc chứng minh mối quan hệ với thông tin đó, nộp đơn đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trả phí và tuân thủ các trình tự, thủ tục theo quy định Cụ thể, Luật về tự do tiếp cận các văn bản hành chính của Cộng hòa Pháp năm 1978 chỉ cho phép cung cấp tài liệu cho những người có liên quan nếu tài liệu đó có thể ảnh hưởng đến sự riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật y tế hoặc bí mật thương mại Trong trường hợp này, người yêu cầu thông tin cần chứng minh mối quan hệ với thông tin yêu cầu.

1.2.2 Chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước

Phạm vi chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin rất rộng, bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, và các tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước Đặc biệt, Nam Phi còn quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin cho cả chủ thể tư nhân trong một số trường hợp Tuy nhiên, trong quản lý nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể chính có nghĩa vụ cung cấp thông tin mà công dân yêu cầu Do đó, để được cung cấp thông tin, người yêu cầu cần nộp đơn đến đúng cơ quan có thẩm quyền Luật về tiếp cận thông tin của Nhật Bản cũng quy định rõ ràng về yêu cầu cung cấp văn bản.

Theo Viện Nghiên cứu quyền con người (2007), các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin quy định rằng người đứng đầu cơ quan hành chính phải cung cấp các văn bản hành chính khi có yêu cầu, trừ những thông tin không công khai hóa được nêu trong các mục cụ thể Cơ quan hành chính bao gồm các cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, cơ quan quản trị Hoàng cung, Ủy ban Kiểm toán, và các cơ quan khác được thành lập theo Luật về thành lập Văn phòng Chính phủ, Luật Tổ chức Chính quyền quốc gia, và Luật về cơ quan quản trị Hoàng cung.

1.2.3 Hình thức và thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước

Hình thức yêu cầu cung cấp thông tin chủ yếu là bằng văn bản, gửi trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền hoặc qua bưu điện, fax, thư điện tử Một số quốc gia như Úc và Canada yêu cầu thông tin phải được trình bày bằng văn bản, trong khi một số nước khác cho phép yêu cầu qua điện thoại Theo Luật Thúc đẩy tiếp cận thông tin của Nam Phi, yêu cầu cung cấp thông tin bằng miệng sẽ được biên soạn lại thành văn bản bởi quan chức thông tin và cung cấp bản sao cho người yêu cầu.

Phi còn cho phép ủy quyền yêu cầu cung cấp thông tin nhưng phải có giấy từ chứng minh tư cách pháp lý của người được ủy quyền

Người yêu cầu thông tin cần nộp yêu cầu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cơ quan giữ thông tin Sau khi tiếp nhận yêu cầu, cơ quan phải cung cấp thông tin trong thời hạn pháp luật quy định Nếu thông tin phức tạp hoặc không có sẵn, cơ quan có thể gia hạn thời gian cung cấp Trong trường hợp thông tin thuộc diện miễn trừ, cơ quan có quyền từ chối yêu cầu nhưng phải thông báo và nêu rõ lý do cho người yêu cầu.

Viện nghiên cứu quyền con người (2007) đã công bố các văn kiện quốc tế và luật pháp của một số quốc gia liên quan đến quyền tiếp cận thông tin Tài liệu này được xuất bản bởi NXB Công an nhân dân tại Hà Nội, trang 275.

Viện nghiên cứu quyền con người (2007) đã xuất bản tài liệu "Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin" tại NXB Công an nhân dân, Hà Nội, trang 218 Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định quốc tế và pháp luật liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, góp phần nâng cao nhận thức về quyền con người trong lĩnh vực thông tin.

Người yêu cầu thông tin có thể nhận được thông tin miễn phí hoặc phải trả phí cho các dịch vụ như in ấn, sao chụp và xử lý thông tin Theo Điều 29 của Luật Tự do thông tin năm 1982 của Úc, nếu một cơ quan hoặc Bộ trưởng yêu cầu người nộp đơn trả phí, họ phải thông báo bằng văn bản cho người đó, nêu rõ trách nhiệm thanh toán, số tiền ước tính và cơ sở tính phí, cũng như quyền của người nộp đơn được yêu cầu điều chỉnh hoặc miễn giảm khoản phí này.

1.2.4 Phạm vi thông tin được yêu cầu cung cấp và trường hợp miễn trừ cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước

- Thông tin được yêu cầu cung cấp là những thông tin đáp ứng các điều kiện sau đây:

Cơ quan hành chính nhà nước có vai trò quan trọng trong việc ban hành và tiếp nhận thông tin, như thông tin từ Chính phủ Canada, tài liệu do các cơ quan này tiếp nhận hoặc phát hành trong quá trình hoạt động tại Đan Mạch, cũng như văn bản hành chính ở Nhật Bản và Pháp.

Thông tin không phải là những dữ liệu đã được công bố công khai bởi cơ quan hành chính nhà nước, mà có thể dễ dàng tìm thấy qua internet, sách báo và các nguồn tài liệu khác.

+ Không thuộc trường hợp miễn trừ cung cấp thông tin

Luật Tiếp cận thông tin không liệt kê cụ thể thông tin cần cung cấp nhằm tránh thiếu sót và bảo vệ quyền lợi của công dân Tuy nhiên, trong những trường hợp khó xác định thông tin có thuộc diện miễn trừ hay không, hoặc khi thông tin dễ bị từ chối bởi cơ quan hành chính, luật đã quy định rõ ràng để đảm bảo tính khả thi trong việc áp dụng.

Năm 2007, Viện Nghiên cứu Quyền con người đã xuất bản tài liệu "Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin" tại NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, trang 402 Tài liệu này nêu rõ các thông tin có thể được cung cấp theo quy định của Nhật Bản, bao gồm những nội dung cụ thể.

Thông tin cần công khai theo quy định pháp luật hoặc tập quán bao gồm: a) Những thông tin đã được chuẩn bị sẵn để công bố; b) Những thông tin cần thiết để bảo vệ cuộc sống, sức khỏe, tài sản hoặc nghề nghiệp của cá nhân; c) Trong trường hợp cá nhân được đề cập là một quan chức chính phủ.

- Trường hợp miễn trừ cung cấp thông tin

Quyền tiếp nhận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước

Quyền tiếp nhận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước là khả năng mà công dân có thể tiếp cận những thông tin và tài liệu do các cơ quan hành chính nhà nước sản xuất và lưu trữ trong quá trình thực hiện chức năng quản lý.

1.3.1 Chủ thể có quyền tiếp nhận thông tin trong quản lý nhà nước

Trong quản lý nhà nước, chủ thể tiếp nhận thông tin rất đa dạng, bao gồm cá nhân, cơ quan và tổ chức Pháp luật thường không quy định giới hạn hay điều kiện cho các chủ thể này Tuy nhiên, Nhà nước có thể đặt ra các điều kiện đối với những người yêu cầu cung cấp thông tin, như yêu cầu họ phải là công dân, có liên quan đến thông tin và trình bày rõ mục đích Mặc dù chủ thể tiếp nhận thông tin có thể bị động, nhưng cơ quan nhà nước vẫn phải công khai thông tin một cách rộng rãi và phù hợp cho tất cả mọi người.

1.3.2 Chủ thể có trách nhiệm công khai thông tin trong quản lý nhà nước

Cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm công khai thông tin mà họ tạo ra hoặc thu thập trong quá trình hoạt động Theo nguyên tắc, tất cả các cơ quan này đều phải công khai thông tin, trừ một số trường hợp liên quan đến thông tin mật hoặc được miễn trừ Luật công khai thông tin của các cơ quan chính quyền Hàn Quốc năm 1996 quy định rằng các cơ quan chính quyền phải cung cấp thông tin thuộc quyền sở hữu và quản lý của họ cho công chúng Định nghĩa về các cơ quan chính quyền bao gồm cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và các cơ quan do chính phủ đầu tư.

Pháp luật có thể quy định nghĩa vụ công khai thông tin của cá nhân như người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, người đại diện theo pháp luật hoặc người phát ngôn Điều này nhằm xác định trách nhiệm của họ khi không thực hiện đầy đủ việc công bố, công khai thông tin.

1.3.3 Hình thức và thủ tục công khai thông tin trong quản lý nhà nước

Hình thức công khai thông tin rất đa dạng, bao gồm thông báo qua các phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử, báo chí, tạp chí, niêm yết tại trụ sở, và thông báo trong các cuộc họp Tại Nam Phi, pháp luật quy định công khai thông tin qua danh bạ điện thoại, trong khi Trung Quốc yêu cầu các cấp chính quyền lập khu vực riêng trong cơ quan lưu trữ và thư viện công cộng để công chúng dễ dàng tiếp cận thông tin Ở Anh, luật pháp cũng yêu cầu công khai thông tin một cách minh bạch.

Theo Viện nghiên cứu quyền con người (2007), các văn kiện quốc tế và luật pháp của nhiều quốc gia quy định rằng các cơ quan công quyền phải công bố thông tin theo kế hoạch được phê duyệt bởi Ủy viên thông tin độc lập Tại Hoa Kỳ, ngoài việc thông tin được đăng trên Công báo, pháp luật còn yêu cầu thông tin phải được cung cấp dưới dạng điện tử và ghi vào danh mục hồ sơ lưu trữ.

Các cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm công khai thông tin trong một thời gian nhất định, ngay cả khi không có yêu cầu Nếu không công khai thông tin đúng hạn, họ có thể bị khiếu nại hoặc xử lý kỷ luật Pháp lệnh về công khai thông tin của Chính quyền Trung Quốc quy định rõ về trách nhiệm này.

Cơ quan nhà nước có trách nhiệm công bố thông tin do mình tạo ra và thông tin thu thập từ công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác theo quy định pháp luật Thông tin cần công bố phải được thực hiện trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày lập hoặc cập nhật Ngoài việc công khai, các cơ quan cũng cần thường xuyên cập nhật thông tin, đặc biệt là những thông tin đã bị hủy bỏ hoặc sửa đổi Luật minh bạch và tiếp cận thông tin công của Peru năm 2003 quy định rằng thông tin cần công bố theo quy trình 3 lần/năm sẽ được công bố trong vòng 30 ngày sau khi kết thúc thời hạn 3 tháng, đồng thời thông tin từ hai giai đoạn trước cũng sẽ được công bố để so sánh.

1.3.4 Phạm vi thông tin được công khai và những thông tin không thuộc trường hợp Nhà nước công bố công khai

- Thông tin được Nhà nước công bố công khai

20 http://www.vibonline.com.vn/Baiviet/1572/Phan-tich-so-sanh-phap-luat-ve-quyen-tiep-can-thong-tin-cua- mot-so-quoc-gia-tren-the-gioi.aspx

Viện nghiên cứu quyền con người (2007) đã xuất bản tài liệu "Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin" với nội dung phong phú, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định và chính sách liên quan đến quyền tiếp cận thông tin Tài liệu này được phát hành bởi NXB Công an nhân dân tại Hà Nội, trang 382.

Năm 2007, Viện Nghiên cứu Quyền con người đã xuất bản tài liệu "Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin", do NXB Công an Nhân dân phát hành tại Hà Nội, trang 318 Tài liệu này cung cấp cái nhìn tổng quan về các quy định pháp lý và tài liệu quốc tế liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, góp phần nâng cao nhận thức về quyền con người trong lĩnh vực thông tin.

Thông tin công khai do Nhà nước cung cấp thường là những dữ liệu có sẵn, do các cơ quan quản lý hoặc tạo ra, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, theo quy định của pháp luật Các loại thông tin này bao gồm quyền và nghĩa vụ của người dân, hoạt động và chức năng của các cơ quan nhà nước, thủ tục hành chính, cũng như các chương trình, chính sách và kế hoạch phát triển trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, giáo dục, y tế, môi trường và việc làm Ngoài ra, thông tin về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất cũng cần được công khai để công dân có thể tham gia và đóng góp ý kiến.

Cách liệt kê các trường hợp phải công khai thông tin có ưu điểm là rõ ràng và cụ thể, giúp cơ quan nhà nước dễ dàng thực hiện nghĩa vụ công khai Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là không thể liệt kê đầy đủ mọi trường hợp, chỉ phù hợp với phạm vi hẹp Ngược lại, một số nước áp dụng cách quy định thông tin không công khai và các trường hợp miễn trừ, từ đó các thông tin còn lại sẽ phải được công khai Phương pháp này mở rộng phạm vi công khai nhưng lại thiếu tính cụ thể, gây khó khăn trong việc áp dụng và yêu cầu cơ quan phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định công khai thông tin.

- Thông tin không thuộc trường hợp Nhà nước công bố công khai, bao gồm:

Thông tin thuộc bí mật nhà nước là những dữ liệu không được công khai theo quy định của pháp luật và không được cung cấp khi có yêu cầu Những thông tin này có thể được quy định trong Luật Tiếp cận thông tin hoặc Luật về bí mật Nhà nước Trong trường hợp có xung đột giữa hai luật, Luật về bí mật Nhà nước thường được ưu tiên áp dụng, như ở Trung Quốc và Nga Tuy nhiên, một số quốc gia như Nam Phi lại quy định Luật Tiếp cận thông tin có ưu tiên hơn Cụ thể, Luật Thúc đẩy tiếp cận thông tin tại Nam Phi nhấn mạnh rằng bất kỳ quy định nào của các văn bản pháp luật khác cấm hoặc hạn chế việc công bố thông tin trái với mục tiêu của Luật này đều bị bãi bỏ.

Thông tin được cung cấp theo yêu cầu hoặc thỏa thuận không thuộc diện công bố công khai và phải được cơ quan Nhà nước cung cấp khi có yêu cầu từ công dân hoặc tổ chức Những thông tin này thường liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc tổ chức cụ thể, không mang tính đại chúng và không dễ dàng tìm thấy trên các phương tiện thông tin đại chúng Để nhận loại thông tin này, công dân và tổ chức cần làm đơn yêu cầu theo quy định của pháp luật và trả một khoản phí nhất định.

Thông tin được cung cấp hạn chế là loại thông tin không phổ biến, chỉ có một số quốc gia cho phép tiếp cận Loại thông tin này thường liên quan đến hồ sơ và thông tin của các cơ quan, tổ chức khác hoặc của các cá nhân tư nhân.

Các biện pháp pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước

1.4.1 Ban hành Luật Tiếp cận thông tin

- Biện pháp này đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải ban hành Luật Tiếp cận thông tin, trong đó quy định các nội dung chủ yếu sau:

+ Xác định các loại chủ thể và quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể;

+ Quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của công dân và nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước;

+ Quy định về trách nhiệm công khai thông tin ngay cả khi không có yêu cầu;

+ Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân;

+ Cơ chế kiểm tra, giám sát việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân

Luật Tiếp cận thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo rằng cơ quan nhà nước coi việc cung cấp và công khai thông tin là nghĩa vụ, không phải là sự ban phát hay đặc quyền Nếu thiếu luật này, quyền tiếp cận thông tin của công dân có thể bị vi phạm, đồng thời cơ quan nhà nước cũng sẽ gặp khó khăn trong việc xác định phạm vi thông tin cần cung cấp.

Theo Viện nghiên cứu quyền con người (2007), việc quy định quyền tiếp cận thông tin cho công dân cần phải rõ ràng và cụ thể trong luật pháp Nếu chỉ đưa ra quy định chung chung mà không có cơ sở pháp lý, công dân sẽ không biết cách thực hiện quyền của mình và sẽ trở nên thụ động trong việc tiếp nhận thông tin, phụ thuộc vào trách nhiệm của cơ quan nhà nước Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một khung pháp lý chi tiết về quy trình, thủ tục cung cấp thông tin và các căn cứ từ chối yêu cầu thông tin không hợp pháp.

Luật Tiếp cận thông tin mang lại nhiều lợi ích tích cực, giúp công dân và cơ quan nhà nước thực hiện quyền tiếp cận thông tin một cách chủ động và ý thức hơn Luật này thiết lập quy trình và phương thức rõ ràng, tạo cơ sở cho công dân và cơ quan nhà nước thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Đồng thời, nó cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.

Một số ý kiến cho rằng việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin thống nhất là không cần thiết, vì quyền tiếp cận thông tin của công dân đã được quy định rải rác trong các luật khác Tuy nhiên, tác giả nhấn mạnh rằng việc có một luật riêng và thống nhất là rất cần thiết để bảo vệ quyền lợi của công dân một cách hiệu quả hơn.

Luật Tiếp cận thông tin là cần thiết để thống nhất quy trình và cách thức thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân Thiếu luật này sẽ dẫn đến sự không rõ ràng và mâu thuẫn trong các quy định, gây khó khăn cho cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện, từ đó hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân.

Việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin thống nhất sẽ tạo ra một quy trình rõ ràng cho quyền tiếp cận thông tin của công dân, buộc các cơ quan nhà nước thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật Điều này giúp tránh tình trạng quy định chồng chéo, thiếu nhất quán và mâu thuẫn trong việc thực thi quyền này.

Quan hệ giữa công dân và cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin là một mối quan hệ xã hội có tổ chức và hệ thống, vì vậy cần có một văn bản pháp luật thống nhất để điều chỉnh Luật Tiếp cận thông tin không chỉ thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với quyền công dân mà còn ràng buộc trách nhiệm của Nhà nước một cách rõ ràng Điều này được xem là biện pháp quan trọng nhất nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân, bao gồm quyền tìm kiếm và tiếp nhận thông tin.

1.4.2 Quy định trách nhiệm công khai thông tin trong quản lý nhà nước Đây là biện pháp bảo đảm quyền tiếp nhận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước Yêu cầu của biện pháp này là:

Nguyên tắc công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước cần được ghi nhận trong các văn bản pháp luật, đặc biệt là Hiến pháp và các luật có giá trị pháp lý cao Khi nguyên tắc này trở thành quy định pháp luật, các cơ quan nhà nước phải cụ thể hóa và thực hiện thông qua việc công khai thông tin, nhằm đảm bảo mọi người đều nắm rõ và không có sự mờ ám, khuất tất trong quá trình quản lý.

Quy định về trình tự và thủ tục công khai thông tin bao gồm các thông tin cần công khai, chủ thể có trách nhiệm thực hiện công khai, hình thức và thời hạn công khai thông tin, cũng như các trường hợp miễn trừ công khai.

- Tổ chức công bố, cung cấp các thông tin thuộc trường hợp phải công khai bằng những hình thức phù hợp

Biện pháp này tăng cường tính chủ động và trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc công khai thông tin, đồng thời giúp công dân dễ dàng tiếp cận các thông tin cần thiết Nhờ đó, công dân có thể tham gia tích cực hơn vào việc quản lý nhà nước và giám sát hoạt động của các cơ quan chức năng.

1.4.3 Quy định cách thức, thủ tục thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin Đây là biện pháp quan trọng nhằm bảo đảm quyền tìm kiếm thông tin của công dân Đối với những thông tin không được nhà nước công khai, không dễ dàng tìm kiếm hoặc thông tin liên quan đến cá nhân cụ thể thì thì công dân phải trực tiếp liên hệ cơ quan nhà nước và thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin Do đó, cơ quan nhà nước có trách nhiệm xây dựng cách thức, thủ tục để công dân thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin của mình

Thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin bao gồm các nội dung quan trọng như xác định người có quyền yêu cầu, chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin, phạm vi thông tin được cung cấp, và các trường hợp miễn trừ Bên cạnh đó, cần làm rõ hình thức yêu cầu cung cấp thông tin, trình tự thực hiện thủ tục, cũng như các vấn đề liên quan đến phí và lệ phí Cuối cùng, cần quy định trình tự giải quyết khiếu nại hoặc khởi kiện khi người yêu cầu cho rằng cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền vi phạm.

Ngoài ra, thủ tục này phải đáp ứng các yêu cầu sau:

- Thống nhất quy định về trình tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin và cung cấp thông tin khi có yêu cầu

- Các quy định về điều kiện, thủ tục, lệ phí cung cấp thông tin hợp lý, không gây khó khăn, cản trở công dân thực hiện quyền của mình

Để đảm bảo cơ quan nhà nước thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin và ngăn chặn việc công dân lợi dụng quyền này, cần thiết phải có quy định rõ ràng về thủ tục yêu cầu thông tin Nếu không có hướng dẫn cụ thể, quyền tìm kiếm thông tin của công dân sẽ khó được thực hiện, dẫn đến sự lúng túng cho cả hai bên Công dân sẽ không biết cơ quan nào có thẩm quyền, cách thức yêu cầu, thời hạn và lệ phí liên quan, gây tốn kém thời gian và công sức Ngược lại, cơ quan nhà nước cũng thiếu căn cứ để thực hiện nghĩa vụ của mình, có thể dẫn đến việc từ chối hoặc chậm trễ trong việc cung cấp thông tin.

1.4.4 Quy định việc khiếu nại, khởi kiện liên quan đến quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước

- Khiếu nại tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Công dân có quyền khiếu nại tại cơ quan nhà nước khi quyền lợi hợp pháp của họ bị vi phạm, như không công bố thông tin theo quy định, từ chối yêu cầu cung cấp thông tin không có lý do chính đáng, hoặc cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ Cơ chế khiếu nại này có ưu điểm là giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém và thủ tục đơn giản, giúp việc thực hiện các quyết định dễ dàng hơn Tuy nhiên, cơ chế này cũng có hạn chế như tính độc lập không cao, quy trình không chặt chẽ, và sự tham gia của luật sư hay người đại diện còn hạn chế trong quá trình giải quyết khiếu nại.

Hiện nay, tại các quốc gia quy định hai cơ chế khiếu nại như sau:

Vai trò của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước

1.5.1 Đối với các quyền công dân khác

Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền lợi của công dân, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các quyền công dân khác Khi quyền này được bảo vệ, công dân có thể tham gia vào quản lý nhà nước, giám sát hoạt động của chính quyền và thực hiện các quyền chính trị, dân sự như quyền bầu cử, quyền ứng cử, và quyền tự do ngôn luận Nếu quyền tiếp cận thông tin không được đảm bảo, các quyền công dân khác sẽ khó được thực hiện đầy đủ Ví dụ, việc không cung cấp thông tin về ngày bầu cử và danh sách ứng cử viên sẽ cản trở cử tri thực hiện quyền bầu cử Tương tự, nếu cha mẹ không biết về thủ tục đăng ký khai sinh, con cái sẽ không có giấy tờ hợp lệ, ảnh hưởng đến quyền học tập, làm việc và kết hôn trong tương lai.

1.5.2 Đối với nền kinh tế

Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin không chỉ thúc đẩy các quyền chính trị, dân sự, văn hóa và xã hội, mà còn mang lại lợi ích kinh tế cho cá nhân, doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia Cơ quan hành chính nhà nước nắm giữ nhiều thông tin quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai và các dự án đầu tư Nếu thông tin này không được công khai, một số đối tượng có thể lợi dụng để trục lợi, dẫn đến tình trạng bất bình đẳng và cạnh tranh không lành mạnh Ngược lại, khi Nhà nước công khai thông tin, mọi cá nhân và tổ chức sẽ có cơ hội lập kế hoạch kinh doanh ổn định, từ đó giảm thiểu rủi ro và tiết kiệm chi phí sản xuất Điều này không chỉ tăng cường tính cạnh tranh mà còn thu hút đầu tư, góp phần ổn định và phát triển kinh tế.

Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn và giải quyết nhiều vấn đề xã hội, bao gồm giảm nghèo đói, lạc hậu, tệ nạn xã hội, thất nghiệp và ô nhiễm môi trường.

Amartya Sen nhấn mạnh rằng báo chí tự do và thực thi dân chủ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin ảnh hưởng đến chính sách ngăn chặn nạn đói, như thông tin về hạn hán, lũ lụt và thất nghiệp Người nghèo ở vùng sâu, vùng xa thường thiếu thông tin, dẫn đến việc họ không nắm bắt được các quy định pháp luật và chương trình xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục Hơn nữa, tình trạng thiếu minh bạch trong quản lý nhà nước tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển, khiến người nghèo trở thành nạn nhân chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.

Phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế mà còn là quyền tự do, như Amartya Sen đã chỉ ra Tuy nhiên, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, khi người nghèo ngày càng nghèo hơn và người giàu ngày càng giàu hơn, dẫn đến bất bình đẳng và thiếu công bằng trong xã hội.

Công tác tuyên truyền và phổ biến các chính sách, quy định pháp luật về tệ nạn xã hội là cần thiết để nâng cao ý thức pháp luật và ngăn ngừa vi phạm Trong lĩnh vực môi trường, Công ước về tiếp cận thông tin và sự tham gia của công chúng trong quyết định môi trường đã được ban hành, quy định rằng công dân có quyền tiếp cận thông tin và tham gia vào quá trình ra quyết định Mục tiêu của Công ước là thúc đẩy giáo dục môi trường, tăng cường hiểu biết và khuyến khích sự tham gia của công chúng vào các quyết định liên quan đến môi trường và phát triển bền vững Các quốc gia thành viên cần nội luật hóa quy định của Công ước để thúc đẩy bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

1.5.4 Đối với hoạt động quản lý nhà nước

Trong quá trình quản lý nhà nước, các cơ quan nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, dự án và kế hoạch dựa trên thực tiễn và báo cáo từ cấp dưới Nếu thông tin nhận được không chính xác hoặc bị "tô hồng", các quyết định có thể trở nên thiếu chính xác và không thực tế.

Trong quản lý nhà nước, các cơ quan hành chính đôi khi đưa ra quyết định và văn bản không hợp lý, gây khó khăn cho cá nhân và tổ chức Để phát hiện và khắc phục những thiếu sót này, vai trò giám sát và phản biện xã hội của cá nhân và tổ chức là rất quan trọng Như James Madison, "cha đẻ của Hiến pháp Mỹ," đã từng nói: nếu con người là những thiên thần, thì không cần

Chính quyền cần thiết để quản lý xã hội, nhưng do con người không hoàn hảo, việc kiểm soát quyền lực là rất quan trọng để ngăn ngừa lạm dụng Cần có cơ chế giám sát hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi công dân và đảm bảo sự công bằng trong việc thực thi quyền lực Các cơ chế kiểm tra nội bộ giữa các cơ quan nhà nước có thể không đủ, vì vậy giám sát xã hội từ các cá nhân, tổ chức bên ngoài là cần thiết Hình thức giám sát này độc lập và khách quan, giúp tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và ngăn chặn tình trạng độc quyền hay lạm dụng quyền lực.

Phản biện xã hội, cùng với giám sát xã hội, là cơ chế quan trọng thúc đẩy trách nhiệm của cơ quan nhà nước và sự tham gia của nhân dân trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, góp phần xây dựng một Nhà nước dân chủ và công bằng Đây là quá trình tranh luận nhằm làm rõ tính hợp lý, hợp pháp của các chính sách, văn bản pháp luật và dự án quan trọng ảnh hưởng đến xã hội Phản biện xã hội không phải là sự phản đối mà là sự phản ánh dư luận nhằm tạo ra sự đồng thuận Hai cơ chế này là cần thiết để đảm bảo các hoạt động của nhà nước trở nên đúng đắn và hiệu quả hơn Để thực hiện giám sát và phản biện xã hội, việc trao đổi thông tin và quyền tiếp cận thông tin là điều kiện tiên quyết, giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

1.5.5 Đối với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Tham nhũng là một vấn đề phổ biến, hiện diện ở mọi quốc gia và có thể tác động tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển của đất nước.

28 http://en.wikiquote.org/wiki/James_Madison

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 của Việt Nam định nghĩa tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì lợi ích cá nhân Hành vi này gây ra hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, tạo ra bất bình đẳng xã hội, cản trở nỗ lực xóa đói, giảm nghèo, và làm giảm niềm tin của nhân dân vào chính quyền Nguyên nhân chính của tham nhũng là sự thiếu công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước, khiến người dân không thể giám sát hiệu quả Việc phát hiện và xử lý các vụ tham nhũng có sự đóng góp quan trọng từ nhân dân và báo chí Do đó, pháp luật về quyền tiếp cận thông tin giúp tăng cường tính công khai, minh bạch, nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước và ngăn ngừa tình trạng tham nhũng.

1.5.6 Đối với quá trình hội nhập quốc tế

Quyền tiếp cận thông tin là quyền cơ bản của con người, được công nhận qua nhiều văn kiện quốc tế như Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (1948) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) Các hiệp định như Công ước về quyền trẻ em (1989) và Công ước về tiếp cận thông tin trong môi trường (1998) cũng khẳng định tầm quan trọng của quyền này Nhiều quốc gia đã ký kết và gia nhập các văn kiện này, cam kết tôn trọng và thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trừ trường hợp bảo lưu.

Tính đến ngày 9 tháng 10 năm 2011, có 74 quốc gia đã ký Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, trong đó Việt Nam gia nhập vào ngày 24 tháng 9 năm 1982 Bên cạnh đó, Công ước của Liên Hợp Quốc về phòng, chống tham nhũng đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào ngày 01 tháng 10 năm 2003 và chính thức có hiệu lực từ ngày 14 tháng 12 cùng năm.

29 http://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=IV-4&chapter=4&lang=en

2005 Tính đến ngày 20 tháng 6 năm 2010, có 143 quốc gia là thành viên Công ước, trong đó có Việt Nam

Quá trình hội nhập quốc tế yêu cầu Việt Nam thực hiện cam kết quốc tế và điều chỉnh hệ thống pháp luật theo chuẩn mực toàn cầu Việc gia nhập Công ước Liên Hợp Quốc về phòng, chống tham nhũng đòi hỏi các quốc gia thành viên tăng cường hợp tác quốc tế, phối hợp điều tra, truy tố, và thu hồi tài sản tham nhũng Công ước nhấn mạnh nguyên tắc công khai, minh bạch, yêu cầu mỗi quốc gia xây dựng chính sách chống tham nhũng hiệu quả, thúc đẩy sự tham gia của xã hội và bảo đảm tính liêm khiết, trách nhiệm trong quản lý tài sản công Đặc biệt, Điều 9 quy định về mua sắm công yêu cầu công khai thông tin về thủ tục và hợp đồng, trong khi Điều 13 khuyến khích sự tham gia của cộng đồng để nâng cao tính minh bạch trong quyết định.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA CÔNG DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:25

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Ngoài hình thức công khai thông tin nêu trên, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn còn quy định hình thức niêm yết công khai tại trụ  sở  Hội  đồng  nhân  dân,  Ủy  ban  nhân  dân  cấp  xã;  công  khai  trên  hệ  thống  truyền thanh của cấp  - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
go ài hình thức công khai thông tin nêu trên, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn còn quy định hình thức niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã; công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp (Trang 53)
khai thông tin dưới hình thức niêm yết như sau: “1. Những nội dung quy định tại các khoản 2, 3, 9 và 10 Điều 5 của Pháp lệnh này phải được niêm yết công  khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
khai thông tin dưới hình thức niêm yết như sau: “1. Những nội dung quy định tại các khoản 2, 3, 9 và 10 Điều 5 của Pháp lệnh này phải được niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã (Trang 54)
Hình thức và thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
Hình th ức và thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin (Trang 70)
Tình hình thực thi pháp luật về quyền tìm  kiếm  thông  tin  của  công  dân  trong  quản lý nhà nước  - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
nh hình thực thi pháp luật về quyền tìm kiếm thông tin của công dân trong quản lý nhà nước (Trang 71)
BẢNG TỔNG HỢP CÁC QUỐC GIA ĐÃ BAN HÀNH LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TINi - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
i (Trang 92)
BẢNG TỔNG HỢP MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN MỘT SỐ NƯỚC  - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
BẢNG TỔNG HỢP MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN MỘT SỐ NƯỚC (Trang 96)
- Bảo vệ bí mật nhà nước,  bí  mật  kinh  - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
o vệ bí mật nhà nước, bí mật kinh (Trang 101)
Hình phạt tùy theo  hành  vi  vi  phạm,  có  thể bị tuyên  án hình sự.  - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
Hình ph ạt tùy theo hành vi vi phạm, có thể bị tuyên án hình sự. (Trang 101)
Tình hình văn hóa xã hội 53 49% - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
nh hình văn hóa xã hội 53 49% (Trang 103)
Tình hình kinh tế 68 62% - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
nh hình kinh tế 68 62% (Trang 103)
Bảng niêm yết ở trụ sở cơ quan nhà nước 28 26 Phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài)80 73  - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
Bảng ni êm yết ở trụ sở cơ quan nhà nước 28 26 Phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài)80 73 (Trang 104)
4. Hình thức anh, chị yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin?  - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
4. Hình thức anh, chị yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin? (Trang 105)
Hình thức anh, chị yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin? - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
Hình th ức anh, chị yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin? (Trang 105)
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH CÔNG KHAI THÔNG TIN - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH CÔNG KHAI THÔNG TIN (Trang 109)
hình) - Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước
h ình) (Trang 112)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w