1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Pháp luật về quyền được chăm sóc sức khảo của người cao tuổi (luận văn thạc sỹ luật)

102 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Về Quyền Được Chăm Sóc Sức Khỏe Của Người Cao Tuổi
Tác giả Lê Ngô Quỳnh Hoa
Người hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Cửu Việt
Trường học Trường Đại Học Luật Tp Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Thể loại luận văn thạc sĩ luật
Năm xuất bản 2016
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 102
Dung lượng 1,33 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Người cao tuổi – đối tượng dễ bị tổn thương về quyền con người (13)
    • 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người cao tuổi (13)
    • 1.1.2. Vị thế của người cao tuổi trong lĩnh vực quyền con người (15)
  • 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi và các biện pháp pháp lý hành chính bảo đảm quyền này (17)
    • 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm quyền được chăm sóc sức khỏe của người (18)
    • 1.2.2. Nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (21)
    • 1.2.3. Các biện pháp pháp lý hành chính bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (25)
  • 1.3. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (30)
    • 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (30)
    • 1.3.2. Nội dung của pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (32)
    • 1.3.3. Vai trò của pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (35)
  • 1.4. Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của một số nước trên thế giới về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (38)
    • 1.4.1. Kinh nghiệm của các nước Bắc Âu với điển hình của Đan Mạch (38)
    • 1.4.2. Kinh nghiệm của một số nước phát triển ở châu Á (39)
    • 1.4.3. Kinh nghiệm của các quốc gia khu vực Đông Nam Á (41)
    • 2.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền được bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện (44)
    • 2.1.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền được bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi và một số giải pháp khắc phục (48)
  • 2.2. Thực trạng quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về quyền được phòng bệnh, được theo dõi sức khỏe và khám sức khỏe định kỳ của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện (50)
    • 2.2.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền được phòng bệnh, được (50)
    • 2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền được phòng bệnh, được theo dõi sức khỏe và khám sức khỏe định kỳ của người cao tuổi và một số giải pháp khắc phục (53)
  • 2.3. Thực trạng quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về quyền được khám bệnh, chữa bệnh của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện (56)
    • 2.3.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền được khám bệnh, chữa bệnh của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện (56)
    • 2.3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền được khám bệnh, chữa bệnh của người cao tuổi và một số giải pháp khắc phục (60)
  • 2.4. Thực trạng quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về quyền được chăm sóc lâu dài đối với bệnh mạn tính của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện (63)
    • 2.4.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền được chăm sóc lâu dài đối với bệnh mạn tính của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện (63)
    • 2.4.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền được chăm sóc lâu dài đối với bệnh mạn tính của người cao tuổi và một số giải pháp khắc phục (66)
    • 2.5.2. Thực trạng quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về biện pháp tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện (73)
    • 2.5.3. Thực trạng quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện (80)
    • 2.5.4. Thực trạng quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm hành chính về quyền được chăm sóc sức khỏe của của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện (82)
  • 2.6. Các giải pháp chung góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền được chăm sóc sức khoẻ của người cao tuổi (84)
  • PHỤ LỤC (96)

Nội dung

Người cao tuổi – đối tượng dễ bị tổn thương về quyền con người

Khái niệm và đặc điểm của người cao tuổi

1.1.1.1 Khái niệm người cao tuổi

Theo từ điển tiếng Việt, "người cao tuổi" (NCT) là cách nói lịch sự chỉ người già, tức là những người có tuổi tác cao và đang trải qua quá trình suy yếu sinh lý tự nhiên Trong tiếng Anh, các thuật ngữ như "older person", "aged person" và "elderly person" cũng được sử dụng để chỉ nhóm đối tượng này Do đó, về mặt thuật ngữ, NCT có thể được coi là người già.

Theo quan điểm hiện nay, NCT được xác định dựa trên độ tuổi khi con người có sự thay đổi rõ rệt về tâm sinh lý và vai trò xã hội, thường từ 60 tuổi trở lên, theo quy định của pháp luật từng quốc gia Các nước phát triển thường quy định NCT là người từ 65 tuổi, trong khi một số quốc gia đang phát triển xác định từ 60 tuổi Ở Việt Nam, NCT được định nghĩa là người từ đủ 60 tuổi trở lên, phù hợp với phong tục tập quán và điều kiện kinh tế xã hội hiện tại Bên cạnh thuật ngữ NCT, pháp luật Việt Nam còn sử dụng từ “người già”, mặc dù cả hai đều có nghĩa tương tự trong y học và nhân khẩu học, nhưng trong khoa học pháp lý, chúng được hiểu khác nhau Thuật ngữ NCT được sử dụng trong nhiều văn bản pháp luật và được hiểu thống nhất theo Luật Người cao tuổi năm 2009.

1 Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí

2 “Definition of an older or elderly person”, http://www.who.int/healthinfo/survey/ageingdefnolder/en/.

Luật Người cao tuổi 2009 quy định ba điều quan trọng liên quan đến quyền lợi và bảo vệ người cao tuổi Khái niệm "người già" được đề cập trong Bộ luật Hình sự năm 1999, xác định là người từ 70 tuổi trở lên Nhiều ý kiến cho rằng cần có sự đồng nhất trong việc xác định "người già" để đảm bảo quyền lợi cho nhóm đối tượng này.

NCT, hay người cao tuổi, được định nghĩa là những người từ 60 tuổi trở lên, nhằm phù hợp với quan niệm dân gian và tạo tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật Tuy nhiên, theo quan điểm pháp lý, khái niệm "người già" trong Bộ luật Hình sự cần được hiểu là những người có tình trạng lão suy rõ rệt, cả về thể lực lẫn tinh thần, và do đó cần được bảo vệ đặc biệt Ngược lại, NCT được nhìn nhận tích cực hơn, là những người lớn tuổi với nhiều năm cống hiến cho xã hội Quy định về NCT không chỉ thể hiện truyền thống "kính lão, trọng thọ" mà còn giải quyết các vấn đề phúc lợi và an sinh xã hội, đảm bảo cuộc sống cho họ khi không còn là lực lượng lao động chính Trong bối cảnh hiện nay, mặc dù người từ 60 tuổi có dấu hiệu lão hóa, nhưng sức khỏe của họ vẫn có thể tốt, không thể đồng nhất với khái niệm người già yếu trong pháp luật hình sự.

1.1.1.2 Đặc điểm của người cao tuổi

Khi con người bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể sẽ trải qua nhiều thay đổi tiêu cực, đặc biệt là sự suy giảm chức năng sinh lý.

Sự suy giảm chức năng giác quan ở người cao tuổi (NCT) là điều thường gặp, với mắt khó nhìn rõ các vật ở gần hoặc trong điều kiện thiếu ánh sáng, và tầm nhìn hẹp lại Tai của NCT cũng gặp khó khăn trong việc tiếp nhận âm thanh tần số cao, bao gồm cả tiếng nói, dẫn đến nguy cơ rối loạn thính giác Ngoài ra, khứu giác và vị giác của NCT cũng bị suy yếu theo thời gian, khiến khả năng nhận biết và phân biệt mùi vị ngày càng kém.

Sự suy yếu chức năng của các hệ cơ quan trong cơ thể người cao tuổi (NCT) là một vấn đề đáng chú ý Lão hóa não bộ dẫn đến việc giảm sút trí nhớ, đặc biệt là khả năng ghi nhớ những ký ức gần và ảnh hưởng đến quá trình tư duy.

4 Điểm m Khoản 1 Điều 46 và Điểm h Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm

Năm 2006, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP đã hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, nhấn mạnh rằng người cao tuổi (NCT) thường gặp phải nhiều vấn đề sức khỏe do sự lão hóa Cụ thể, cơ tim và thành mạch máu trở nên xơ cứng, dẫn đến giảm lưu lượng máu và tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch như cao huyết áp, suy tim và nhồi máu cơ tim Hệ hô hấp cũng suy yếu, khiến NCT dễ bị khó thở và mệt mỏi khi làm việc Thêm vào đó, sự thiếu hụt canxi và hiện tượng vôi hóa khớp làm giảm tính linh hoạt, gia tăng nguy cơ mắc các bệnh về xương khớp như thoái hóa cột sống, loãng xương và viêm khớp Cuối cùng, hệ miễn dịch suy yếu khiến NCT dễ mắc bệnh và có nguy cơ lây nhiễm cao hơn so với người trẻ.

Về mặt tâm – sinh lý

Sự suy giảm chức năng thần kinh trong quá trình lão hóa dẫn đến những thay đổi trong hoạt động tâm lý của người cao tuổi, bao gồm giảm khả năng tập trung, mau quên và dễ nhầm lẫn Ngoài yếu tố di truyền, các yếu tố môi trường và xã hội cũng ảnh hưởng đến sự thay đổi này Những biến động trong cuộc sống ở tuổi xế chiều thường khiến tâm lý của người cao tuổi rơi vào trạng thái tiêu cực.

Nghỉ hưu đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc sống của người cao tuổi (NCT), khi họ phải rời xa thói quen làm việc đã kéo dài hàng chục năm Sự thay đổi này dẫn đến việc thu hẹp các mối quan hệ xã hội, đảo lộn nếp sống hàng ngày, và giảm sút thu nhập cũng như vị thế xã hội Những biến động này thường gây ra tâm lý hụt hẫng, trống trải, cô đơn, dễ mất tập trung và hay nổi giận ở NCT.

Trong mối quan hệ gia đình, sự giảm sút thu nhập và vai trò xã hội đã làm cho nhiều người cao tuổi (NCT) cảm thấy vai trò của mình bị suy yếu Thêm vào đó, sức khỏe kém khiến NCT phụ thuộc nhiều vào sự chăm sóc của con cháu, cùng với nỗi lo về bệnh tật tuổi già, tạo ra áp lực tâm lý lớn Họ thường trải qua cảm giác bất lực, mặc cảm, lo âu, buồn bã, và dễ bị căng thẳng, cáu gắt.

Tuổi cao đồng nghĩa với việc hành lang an toàn cho sức khỏe ngày càng hẹp lại, khiến người cao tuổi (NCT) phải đối mặt với nhiều nguy cơ bệnh tật hơn Ngoài các bệnh lý mạn tính, NCT còn dễ mắc các rối loạn tâm thần như lo âu, trầm cảm, loạn thần và mất trí Vì vậy, nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho NCT trở nên cấp thiết, là yếu tố thiết yếu cho cuộc sống của họ.

Vị thế của người cao tuổi trong lĩnh vực quyền con người

5 Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học phát triển, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 176.

Quyền con người là một khái niệm đa diện, thể hiện giá trị nhân văn và tiếng nói chung của nhân loại nhằm bảo vệ nhân phẩm và các quyền cơ bản của mỗi cá nhân Người cao tuổi (NCT) cũng có quyền hưởng cuộc sống hạnh phúc và phẩm giá, nhưng tuổi tác gia tăng đã tạo ra nhiều trở ngại trong việc tiếp cận các quyền này NCT thường đối mặt với các vấn đề như sức khỏe suy yếu, khả năng tự chủ giảm, dễ bị cách ly xã hội và gặp khó khăn về kinh tế Phân biệt tuổi tác là một hình thức phổ biến làm tổn hại quyền lợi của NCT, ngay cả ở những xã hội phát triển Ngoài tuổi tác, sức khỏe, điều kiện kinh tế xã hội và giới tính cũng ảnh hưởng đến khả năng hưởng quyền của NCT Khi lớn tuổi, khả năng tự bảo vệ của họ giảm, dẫn đến nguy cơ bị lạm dụng và cô lập ngay trong gia đình Chính sách phát triển kinh tế xã hội cũng có thể tác động tiêu cực đến cuộc sống của NCT, đặc biệt là những người sống ở vùng sâu, vùng xa Phụ nữ NCT phải gánh vác nhiều trách nhiệm gia đình nhưng thường phải chịu thiệt thòi hơn trong việc hưởng quyền lợi của mình.

6 International Federation on Aging and HelpAge International, The Rights of Older Persons in Asia,

01/2009, http://www.globalaging.org/elderrights/world/2009/humanrightsasia.pdf.

Bài viết "7 'Obituary Photos Suggest Growing Bias Against Aging Faces'" trên Science Daily chỉ ra rằng phụ nữ thường phải chịu đựng nhiều bất lợi do sự phân biệt đối xử về giới, dẫn đến tình trạng sức khỏe và điều kiện kinh tế không được đảm bảo khi về già Họ có nguy cơ cao đối mặt với tàn phế, đói nghèo và sự cô lập khi trở thành người cao tuổi.

Người cao tuổi (NCT) là một nhóm xã hội dễ bị tổn thương, với xuất phát điểm thấp và nguy cơ bị thiệt thòi cao hơn so với các nhóm khác Do đó, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của NCT là rất cần thiết để nâng cao vị trí của họ trong xã hội và đảm bảo họ có thể hưởng đầy đủ quyền lợi Hiện tại, pháp luật quốc tế về nhân quyền vẫn thiếu sót trong việc bảo vệ quyền của NCT, mặc dù các nhóm dễ bị tổn thương khác như trẻ em, phụ nữ và người khuyết tật đã được công nhận và bảo vệ quyền lợi thông qua các Công ước quốc tế NCT cần có một văn bản pháp lý cụ thể để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản như quyền không bị phân biệt đối xử, quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân, quyền tự quyết, quyền về sức khỏe và quyền về tài sản Trong đó, quyền về sức khỏe đặc biệt quan trọng, vì sức khỏe là yếu tố thiết yếu cho cuộc sống, đặc biệt là khi con người bước vào tuổi già Đảm bảo quyền về sức khỏe sẽ tạo nền tảng vững chắc cho NCT có cuộc sống hạnh phúc và giữ gìn phẩm giá như các thành viên khác trong xã hội.

Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi và các biện pháp pháp lý hành chính bảo đảm quyền này

Khái niệm, đặc điểm quyền được chăm sóc sức khỏe của người

1.2.1.1 Khái niệm quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

Theo Hội đồng biên soạn từ điển quốc gia, chăm sóc được định nghĩa là hoạt động duy trì và điều chỉnh để phục hồi khả năng hoạt động bình thường của cơ thể, đồng thời tạo trạng thái thoải mái về thể chất và tinh thần Sự đa dạng trong cách tiếp cận khái niệm sức khỏe đã dẫn đến những hiểu biết khác nhau về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi.

Khái niệm sức khỏe thường được hiểu là trạng thái không có bệnh tật và cảm giác thoải mái về thể chất lẫn tinh thần Trong tiếng Anh, "health care" không chỉ đề cập đến chăm sóc sức khỏe mà còn bao gồm chăm sóc y tế, do đó quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) được hiểu là quyền được đảm bảo về mặt y tế Điều này bao gồm việc phòng bệnh hiệu quả để ngăn ngừa lây nhiễm, đảm bảo NCT tiếp cận dịch vụ y tế kịp thời khi cần thiết để khám, chẩn đoán và điều trị bệnh, cũng như phục hồi chức năng Đối với những bệnh mạn tính, NCT cần được kiểm soát tình trạng bệnh và áp dụng các biện pháp giảm thiểu đau đớn không cần thiết.

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa "sức khỏe" không chỉ là việc không có bệnh tật mà là trạng thái hoàn toàn sảng khoái về thể chất, tinh thần và xã hội Chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT) bao gồm các hoạt động cần thiết để giúp họ đạt được trạng thái tốt nhất ở cả ba khía cạnh này Quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT không chỉ liên quan đến chăm sóc y tế mà còn bao gồm các yếu tố quyết định sức khỏe như lương thực, dinh dưỡng, nước sạch, điều kiện vệ sinh, nhà ở và môi trường sống.

Theo Phạm Vũ Hoàng (2013), để nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi tại Việt Nam, cần áp dụng một số giải pháp hiệu quả Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả tại Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội đã chỉ ra các phương pháp cụ thể nhằm cải thiện dịch vụ chăm sóc cho đối tượng này.

12 Viện Ngôn ngữ học (2002), tlđd 1, tr 805.

Lời nói đầu của Hiến chương Tổ chức Y tế Thế giới năm 1946 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đạt được sức khỏe toàn diện cho người cao tuổi, bao gồm cả ba khía cạnh thể chất, tinh thần và xã hội.

Phạm vi khái niệm quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) được xác định dựa trên cách tiếp cận sức khỏe theo nghĩa hẹp, trong đó sức khỏe được hiểu là trạng thái khỏe mạnh, không có bệnh tật Chăm sóc sức khỏe bao gồm các hoạt động cần thiết để phòng ngừa, chữa trị và phục hồi sức khỏe nhằm duy trì trạng thái khỏe mạnh cho NCT Mặc dù quyền này đã được thừa nhận và thực thi ở cả cấp độ quốc tế và quốc gia, hiện vẫn chưa có định nghĩa chính thống nào trong khoa học pháp lý về quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT Tác giả định nghĩa quyền này là quyền của NCT được tiếp cận và thụ hưởng sự chăm sóc y tế một cách kịp thời và thỏa đáng để duy trì trạng thái khỏe mạnh của cơ thể.

1.2.1.2 Đặc điểm quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

Thứ nhất, chủ thể hưởng quyền là một nhóm yếu thế về quyền con người

Người cao tuổi (NCT) là một nhóm xã hội dễ bị tổn thương về quyền con người do những đặc trưng tâm sinh lý và sự thay đổi vai trò xã hội Họ thường bị xem là gánh nặng, dễ bị xâm hại, bỏ rơi và cô lập, tương tự như trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người lao động di cư Do đó, cần có cơ chế pháp lý ưu tiên để bảo vệ quyền lợi của NCT, đảm bảo họ có cuộc sống khỏe mạnh, hạnh phúc và đầy đủ phẩm giá.

Thứ hai, quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT là loại quyền chủ động

Trong nghiên cứu nhân quyền, quyền con người được phân chia thành quyền thụ động và quyền chủ động Quyền thụ động yêu cầu các chủ thể khác kiềm chế, không can thiệp vào việc thực thi quyền, trong khi quyền chủ động đòi hỏi các chủ thể này phải thực hiện các biện pháp bảo đảm quyền cho người hưởng quyền Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính tương đối, vì thực tế không có quyền nào hoàn toàn thụ động hay chủ động Để quyền con người, đặc biệt là quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi, được thực thi hiệu quả, Nhà nước cần có sự chủ động trong việc xây dựng và triển khai các chính sách y tế phù hợp, đồng thời tôn trọng và không can thiệp vào quyền này Sự nỗ lực của Nhà nước trong việc đảm bảo hệ thống y tế công cộng là cần thiết để người cao tuổi thực sự được hưởng quyền chăm sóc sức khỏe.

Thứ ba, quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT là một quyền cụ thể trong nhóm quyền về sức khỏe

Trong pháp luật quốc tế về nhân quyền, quyền về sức khỏe được coi là một quyền tổng hợp, liên quan chặt chẽ đến nhiều quyền con người khác Quyền này không chỉ bao gồm việc chăm sóc sức khỏe kịp thời mà còn phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản như: tiếp cận nước sạch, điều kiện vệ sinh, nguồn thực phẩm an toàn, nhà ở, môi trường làm việc lành mạnh, và quyền tiếp cận giáo dục cùng thông tin sức khỏe Quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) là một phần thiết yếu trong quyền về sức khỏe của họ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ sức khỏe toàn diện cho NCT.

Giáo trình "Lý luận và Pháp luật về quyền con người" của Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao và Lã Khánh Tùng, xuất bản năm 2011 bởi Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, cung cấp cái nhìn sâu sắc về lý thuyết và pháp luật liên quan đến quyền con người, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ và thực thi quyền này trong xã hội hiện đại.

Quyền về sức khỏe được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng về nhân quyền, với Điều 12 của Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là quy định toàn diện nhất Điều luật này được giải thích chi tiết trong Bình luận chung số 14 do Ủy ban các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa phê chuẩn năm 2000 Đối với người cao tuổi (NCT), quyền được chăm sóc sức khỏe nhằm đạt được trạng thái tốt nhất về thể chất, tinh thần và xã hội, với mục tiêu sống khỏe mạnh và không bệnh tật.

Thứ tư, quyền được chăm sóc sức khỏe là nền tảng đem lại giá trị cuộc sống cho NCT

Sức khỏe là tài sản quý giá của mỗi con người, đặc biệt đối với người cao tuổi (NCT) Dalai Lama đã nói rằng khát vọng về sức khỏe thể hiện mong ước hạnh phúc và tránh đau khổ NCT thường phải đối mặt với áp lực, thói quen xấu và ô nhiễm, dẫn đến suy giảm sức khỏe theo thời gian và tuổi tác Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sống và khả năng hưởng thụ quyền con người khác Vì vậy, nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT là rất lớn, và việc đảm bảo quyền chăm sóc sức khỏe cho họ là cần thiết để họ có thể sống khỏe mạnh, hạnh phúc và giữ gìn phẩm giá.

Nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

Do không có Công ước quốc tế chuyên biệt về quyền của người cao tuổi (NCT), các quyền và tự do cơ bản của NCT vẫn dựa trên các Công ước quốc tế chung về quyền con người Cụ thể, quyền của NCT được bảo vệ bởi Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (ICESCR) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị.

Năm 1966, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) đã được thông qua, trong đó quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) được xác định dựa trên Điều 12 của Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) Điều này được giải thích trong Bình luận chung số 14, nhấn mạnh "Quyền được hưởng tiêu chuẩn sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể" Do đó, việc bảo vệ quyền lợi sức khỏe của NCT cần phải phù hợp với thực tiễn pháp lý tại Việt Nam.

16 Trích theo Wolfgang Benedek (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, tr.135.

Theo đoạn 25 của Bình luận chung số 14, việc thực hiện quyền về sức khỏe của người cao tuổi cần chú trọng đến phương pháp tiếp cận lồng ghép, kết hợp giữa điều trị y tế dự phòng, chữa trị và phục hồi Các biện pháp này phải dựa trên hoạt động kiểm tra sức khỏe định kỳ cho cả nam và nữ, đồng thời bao gồm các biện pháp phục hồi thể chất và tâm lý nhằm duy trì chức năng và tính tự chủ cho người cao tuổi.

Nghiên cứu về quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) tập trung vào các vấn đề như phòng bệnh, khám và chữa bệnh, cũng như phục hồi sức khỏe cho NCT Đồng thời, chăm sóc lâu dài cho NCT mắc bệnh mãn tính cũng là một phần quan trọng Quyền chăm sóc sức khỏe của NCT bao gồm nhiều quyền cụ thể liên quan đến những nội dung này.

Thứ nhất, quyền được bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe

Bình đẳng là nguyên tắc cốt lõi trong quyền con người, đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, yêu cầu mọi người phải có quyền tiếp cận dịch vụ y tế như nhau trong các điều kiện tương đồng Mọi hình thức phân biệt đối xử, nhằm cản trở quyền chăm sóc sức khỏe, đều vi phạm nguyên tắc này Người cao tuổi (NCT) cũng là thành viên của cộng đồng nhân loại và do đó, họ phải được hưởng quyền chăm sóc sức khỏe một cách bình đẳng, không bị phân biệt bởi độ tuổi, giới tính, tình trạng sức khỏe hay điều kiện kinh tế – xã hội Điều này đảm bảo rằng mọi NCT đều được đối xử công bằng trong việc tiếp cận dịch vụ y tế.

Bình đẳng và không phân biệt đối xử không có nghĩa là mọi người phải có xuất phát điểm giống nhau Những chủ thể quyền có điều kiện và năng lực khác nhau cần được đối xử một cách công bằng, đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe Người cao tuổi thường gặp nhiều thiệt thòi về thể trạng và tâm lý, dẫn đến hạn chế trong việc tiếp cận dịch vụ y tế Do đó, cần có những điều chỉnh hợp lý để nâng cao năng lực tiếp cận chăm sóc sức khỏe cho họ, nhằm thúc đẩy sự bình đẳng thực sự Điều này bao gồm việc áp dụng các biện pháp hỗ trợ như giảm chi phí dịch vụ y tế và ưu tiên khám chữa bệnh cho người cao tuổi, cũng như chăm sóc những bệnh nhân nặng để giảm thiểu đau đớn và đảm bảo một cái chết nhân đạo.

Thứ hai, quyền được phòng bệnh, được theo dõi sức khỏe và khám sức khỏe định kỳ

"Phòng bệnh hơn chữa bệnh" là triết lý quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe, đặc biệt đối với người cao tuổi (NCT), khi mà hệ miễn dịch của họ suy giảm và chức năng sinh lý thay đổi Để bảo vệ sức khỏe NCT, việc phòng ngừa lây nhiễm bệnh là rất cần thiết Quyền được phòng bệnh của NCT bao gồm hai yêu cầu chính: đầu tiên, đảm bảo NCT có đủ thông tin về sức khỏe tuổi già để họ chủ động bảo vệ bản thân thông qua việc tuyên truyền và phổ biến kiến thức; thứ hai, tạo điều kiện cho NCT tham gia các hoạt động xã hội và rèn luyện sức khỏe trong cộng đồng, giúp duy trì khả năng hoạt động của cơ thể và cải thiện tâm lý Những biện pháp này không chỉ giúp phòng ngừa bệnh tật mà còn giảm thiểu nguy cơ mắc các bệnh lý liên quan đến tuổi tác như trầm cảm, sa sút trí tuệ và đột quỵ.

Việc theo dõi sức khỏe và khám sức khỏe định kỳ cho người cao tuổi (NCT) là rất quan trọng để duy trì cuộc sống khỏe mạnh Theo dõi sức khỏe giúp phát hiện kịp thời những biến chuyển trong tình trạng sức khỏe của NCT, trong khi khám sức khỏe định kỳ đánh giá tổng quan sức khỏe trong một khoảng thời gian nhất định Quá trình lão hóa có thể gây ra nhiều thay đổi bất thường, dễ dẫn đến biến chứng nguy hiểm Thông qua việc theo dõi và khám sức khỏe thường xuyên, các vấn đề sức khỏe sẽ được phát hiện sớm, từ đó nâng cao hiệu quả điều trị, tiết kiệm thời gian và chi phí, đồng thời giảm thiểu nguy cơ biến chứng Do đó, việc thực hiện theo dõi sức khỏe và khám định kỳ cho NCT là cần thiết để duy trì trạng thái sức khỏe ổn định cho họ.

Thứ ba, quyền được khám bệnh, chữa bệnh

Bệnh tật là một phần không thể tránh khỏi trong cuộc sống, đặc biệt khi con người bước vào tuổi già Do đó, quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT) trở nên vô cùng quan trọng, bao gồm việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ y tế cần thiết để bảo vệ và phục hồi sức khỏe Quyền khám và chữa bệnh cho NCT được nhấn mạnh, trong đó khám bệnh được hiểu là quá trình thu thập thông tin về bệnh thông qua việc hỏi han, khai thác tiền sử bệnh, thăm khám thực thể, và thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết để đưa ra chẩn đoán và phương pháp điều trị phù hợp.

Chữa bệnh là quá trình sử dụng các phương pháp chuyên môn và thuốc để điều trị và phục hồi chức năng cho người bệnh Khám và chữa bệnh cho người cao tuổi (NCT) là những hoạt động chuyên môn nhằm khôi phục sức khỏe thể chất và tâm lý, giúp họ duy trì tính tự chủ Khi NCT có sự thay đổi bất thường về sức khỏe, cần được khám và điều trị kịp thời để tránh tình trạng xấu hơn Hệ thống y tế cần được tổ chức hợp lý, đảm bảo chất lượng để NCT dễ dàng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe Quyền khám chữa bệnh của NCT yêu cầu chuyên môn cao, phù hợp với đặc thù sức khỏe của họ, do tình trạng đa bệnh lý và biểu hiện bệnh không rõ ràng Việc chẩn đoán và điều trị cần dựa trên y học lão khoa để đảm bảo NCT nhận được chăm sóc sức khỏe toàn diện và hiệu quả lâu dài.

Thứ tư, quyền được chăm sóc lâu dài đối với bệnh mãn tính

Ngày nay, bệnh mạn tính (bệnh không lây nhiễm) đã trở thành một vấn đề sức khỏe quan trọng đối với người cao tuổi (NCT) Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh mạn tính được định nghĩa là những bệnh kéo dài theo thời gian và ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của NCT Việc nhận diện và quản lý hiệu quả các bệnh này là cần thiết để nâng cao sức khỏe và tuổi thọ cho người cao tuổi.

Theo Điều 2, khoản 1 và 2 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009, bệnh mạn tính thường kéo dài và tiến triển chậm, với bốn loại bệnh chính là tim mạch, ung thư, hô hấp mạn tính và đái tháo đường, chiếm 80% tỷ lệ tử vong do bệnh mạn tính Tỷ lệ mắc bệnh mạn tính ở người cao tuổi (NCT) cao hơn do sự tích lũy rối loạn sinh lý và thoái hóa chức năng cơ thể theo tuổi tác, làm tăng nguy cơ tử vong và tàn tật Việc điều trị bệnh mạn tính ở NCT chủ yếu tập trung vào chăm sóc lâu dài để phục hồi chức năng, cải thiện sức khỏe và giảm thiểu biến chứng, giúp NCT "chung sống" với bệnh mà vẫn duy trì hoạt động bình thường Điều này yêu cầu quản lý bệnh mạn tính hiệu quả, cho phép NCT tự theo dõi và chăm sóc tại nhà, đồng thời hợp tác chặt chẽ với bác sĩ Đối với những bệnh mạn tính nguy hiểm như ung thư, NCT thường phải chịu đựng đau đớn và gánh nặng tài chính, do đó cần áp dụng các biện pháp chăm sóc giảm nhẹ và giảm đau hiệu quả, dễ tiếp cận.

Nội dung quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) bao gồm các quyền cụ thể như quyền bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe, quyền phòng bệnh, theo dõi sức khỏe và khám sức khỏe định kỳ, quyền khám chữa bệnh, cùng quyền chăm sóc lâu dài cho bệnh mạn tính Quyền bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe là một nguyên tắc phổ quát, thể hiện trong tất cả các khía cạnh của việc chăm sóc sức khỏe cho NCT, từ phòng bệnh đến chữa bệnh và phục hồi sức khỏe Bên cạnh đó, bình đẳng cũng là một nguyên tắc chung trong nhiều quyền con người khác Các quyền còn lại đều mang tính đặc thù, liên quan đến các khía cạnh cụ thể trong việc chăm sóc sức khỏe cho NCT.

Các biện pháp pháp lý hành chính bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

19 “Bệnh không lây nhiễm”, Văn phòng đại diện WHO Việt Nam, 11/3/2013, http://www.wpro.who.int/vietnam/areas/noncommunicable_diseases/fs20130311/vi/.

1.2.3.1 Khái niệm bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

Quyền con người, đặc biệt là quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT), chỉ có ý nghĩa khi được tôn trọng và thực thi trong thực tế Sự tồn tại của quyền này trở nên vô nghĩa nếu không được bảo vệ khỏi các nguy cơ xâm phạm Để đảm bảo quyền chăm sóc sức khỏe cho NCT, cần thực hiện các biện pháp pháp lý, chính trị, kinh tế và xã hội nhằm thúc đẩy sự tôn trọng và hiện thực hóa quyền này.

Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) Nó thiết lập các quy tắc xử sự chung và các biện pháp tổ chức nhằm đảm bảo quyền lợi này Qua đó, pháp luật giúp tôn trọng và thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe của NCT một cách đầy đủ, thông qua cơ chế bắt buộc và áp dụng thống nhất cho mọi thành viên trong xã hội.

Chính trị đóng vai trò quyết định trong việc hình thành và thực thi các chính sách, pháp luật, phản ánh ý chí của giai cấp thống trị Trong lĩnh vực quyền con người, các chủ trương và đường lối chính trị của chính quyền là nền tảng quan trọng để bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi Những tư tưởng này sẽ được thể chế hóa thành chính sách và pháp luật quốc gia, được triển khai và thực hiện thông qua quyền lực nhà nước.

Về mặt kinh tế, nếu quốc gia chỉ có các chủ trương, chính sách và pháp luật liên quan đến chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi mà không đầu tư hợp lý vào hệ thống y tế, thì người cao tuổi sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận và thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe của mình.

Nền tảng kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT) bằng cách tạo ra các điều kiện vật chất và tài chính cần thiết Điều này không chỉ giúp xây dựng hạ tầng cơ sở y tế mà còn góp phần hiện thực hóa quyền được chăm sóc sức khỏe cho NCT một cách hiệu quả.

Đồng thuận xã hội là yếu tố thiết yếu đảm bảo quyền con người, bao gồm quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) Qua các hoạt động tuyên truyền và giáo dục, nhận thức của cộng đồng được nâng cao, giúp mọi người tôn trọng quyền của nhau và tự bảo vệ quyền lợi của bản thân Khi quyền chăm sóc sức khỏe của NCT được xã hội công nhận, nó sẽ được thực thi hiệu quả nhờ vào nguồn lực cộng đồng.

Quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) được đảm bảo thông qua nhiều biện pháp, trong đó biện pháp pháp lý đóng vai trò quan trọng nhất Pháp luật không chỉ là nền tảng hiện thực hóa quyền này mà còn tạo cơ sở cho các biện pháp bảo đảm về chính trị, kinh tế và xã hội Trong các biện pháp pháp lý, biện pháp pháp lý hành chính là nhóm có tính bao quát nhất, vì vậy, nghiên cứu này sẽ tập trung vào các biện pháp pháp lý hành chính nhằm bảo đảm quyền chăm sóc sức khỏe cho NCT.

1.2.3.2 Các biện pháp pháp lý hành chính bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi ở Việt Nam

Các biện pháp đó bao gồm:

Một là, thể chế hóa quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT thành những quy định pháp luật

Cơ sở pháp lý vững chắc là điều kiện tiên quyết để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, đặc biệt là quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) Để đảm bảo quyền này, cần thiết phải thể chế hóa thành các quy định pháp luật, không chỉ ghi nhận mà còn hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền chăm sóc sức khỏe của NCT Quyền này cần được ghi nhận đầy đủ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, từ Hiến pháp, Luật đến các văn bản dưới luật Ngoài ra, các văn bản pháp luật liên quan phải được quy định một cách thống nhất, đồng bộ, không mâu thuẫn hay chồng chéo, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế và nhu cầu của NCT Việt Nam.

Để đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT), cần thiết lập các điều kiện cơ bản, đặc biệt là chế độ Bảo hiểm y tế (BHYT) và nguồn lực xã hội BHYT là hình thức huy động tài chính từ cộng đồng, giúp người dân, đặc biệt là những người nghèo và có thu nhập thấp, tiếp cận dịch vụ y tế khi ốm đau Do đó, BHYT trở thành yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ quyền chăm sóc sức khỏe của NCT Bên cạnh đó, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của NCT không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội Sự chung tay của cộng đồng là điều kiện cần thiết để nâng cao vai trò và chăm sóc sức khỏe cho NCT.

Ba là, tổ chức thực hiện các quy định về quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT

Việc ghi nhận quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT) trong pháp luật là cần thiết, nhưng để đảm bảo quyền này được tôn trọng và thực thi, cần có biện pháp tổ chức thực hiện hiệu quả Tất cả thành viên trong cộng đồng đều có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền chăm sóc sức khỏe của NCT Tuy nhiên, trách nhiệm chính thuộc về Nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, những đơn vị chủ yếu nghiên cứu chính sách và pháp luật liên quan đến NCT, trình lên cơ quan lập pháp ban hành, đồng thời thực hiện và giám sát việc thi hành các quy định pháp luật về chăm sóc sức khỏe cho NCT.

Để đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT), Nhà nước cần quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cho các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương Đồng thời, việc tổ chức mạng lưới các tổ chức và đơn vị chăm sóc sức khỏe cho NCT, đặc biệt là hệ thống bệnh viện và trạm y tế xã, là vô cùng quan trọng.

Bốn là, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về chăm sóc sức khỏe của NCT

Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) là những biện pháp quan trọng nhằm đánh giá sự tuân thủ và thực thi các quy định pháp luật liên quan Những hoạt động này giúp phát hiện sai phạm và áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp Dù được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau và có phạm vi, hình thức tác động khác nhau, mục tiêu chung của chúng là đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT được thực hiện nghiêm túc, triệt để và chính xác.

Thanh tra, kiểm tra, giám sát là những biện pháp thiết yếu trong việc bảo đảm quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT) và thực thi pháp luật trong quản lý nhà nước Các hoạt động này không chỉ giúp ngăn ngừa và phát hiện kịp thời những sai sót, vi phạm mà còn đảm bảo các cơ quan, tổ chức, cá nhân tuân thủ nghiêm chỉnh quy định pháp luật Để bảo vệ quyền lợi của NCT, việc thanh tra, kiểm tra, giám sát cần được thực hiện một cách toàn diện, thường xuyên và liên tục.

Năm là, xử lý vi phạm hành chính về quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT

Vi phạm pháp luật đơn giản là hành động trái với quy định pháp luật Vi phạm quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) không chỉ gây hại mà còn đi ngược lại ý chí của nhà nước và sự đồng thuận xã hội, xâm phạm quyền con người cơ bản của NCT Những cá nhân vi phạm sẽ phải chịu hậu quả pháp lý nghiêm khắc từ nhà nước Trong số các vi phạm này, vi phạm hành chính là phổ biến nhất, do đó, xử lý vi phạm hành chính là biện pháp được áp dụng thường xuyên Hình thức xử lý sẽ phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi vi phạm.

20 Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr 450.

21 Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà Nước và Pháp luật,

Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với các chủ thể vi phạm pháp luật là rất cần thiết để bảo đảm quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT) Những biện pháp này không chỉ giúp ngăn ngừa các vi phạm tiếp theo mà còn góp phần giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật Để đạt hiệu quả cao trong công tác phòng ngừa và giáo dục, việc xử lý vi phạm hành chính cần phải được thực hiện nhanh chóng, công bằng và chính xác, đồng thời các hành vi vi phạm liên quan đến quyền chăm sóc sức khỏe của NCT phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật.

Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

1.3.1.1 Khái niệm pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

Pháp luật được định nghĩa là những quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm hướng dẫn hành vi của cá nhân và tổ chức, đồng thời là cơ sở để xử lý các hành vi vi phạm Trong khoa học pháp lý, pháp luật được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước thiết lập và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và điều chỉnh các quan hệ xã hội Tóm lại, pháp luật là các quy tắc chung do Nhà nước ban hành để phục vụ lợi ích xã hội và giai cấp cầm quyền Trong lĩnh vực quyền con người, pháp luật thiết lập các quy tắc cư xử nhằm bảo vệ nhân phẩm và quyền tự nhiên của mọi cá nhân, đồng thời quy định các cơ chế và biện pháp để đảm bảo việc thực hiện các quy tắc này.

Pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) được định nghĩa dựa trên nhận thức lý luận chung về pháp luật và quyền con người Tác giả nhấn mạnh rằng các quy định pháp lý này nhằm bảo vệ và đảm bảo quyền lợi cho NCT trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.

22 Từ điển luật học (1999), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr 365.

23 Nguyễn Ngọc Điệp (1999), 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố

Quy tắc xử sự bắt buộc, do Nhà nước ban hành, nhằm xác lập và bảo vệ quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT), được đảm bảo thực hiện để nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.

1.3.1.2 Đặc điểm của pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

Pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) mang đầy đủ các thuộc tính của pháp luật, bao gồm tính bắt buộc chung, xác định chặt chẽ về mặt hình thức và được nhà nước bảo đảm thực hiện Nó tạo ra khuôn mẫu pháp lý để điều chỉnh hành vi của mọi chủ thể trong xã hội, nhằm tôn trọng và thực thi quyền chăm sóc sức khỏe của NCT Các quy phạm pháp luật liên quan luôn có mối liên hệ hữu cơ, thể hiện qua nhiều loại văn bản như luật, nghị định, thông tư và quyết định, đảm bảo sự thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng và chính xác trong nội dung.

Pháp luật về quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) cần phải phù hợp với sự phát triển kinh tế và hạ tầng xã hội Khi kinh tế phát triển, chất lượng dịch vụ y tế được cải thiện, từ đó nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho NCT Các quy định pháp luật cũng phải thay đổi theo hướng mở rộng quyền lợi cho NCT, giúp họ dễ dàng tiếp cận và hưởng thụ quyền chăm sóc sức khỏe Sự thay đổi này được thể hiện qua các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với chăm sóc sức khỏe NCT, phù hợp với điều kiện phát triển của từng thời kỳ.

Pháp luật về quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) liên quan chặt chẽ đến các yếu tố văn hóa - xã hội và truyền thống đạo đức dân tộc Các quy định pháp luật này xuất phát từ giá trị nhân văn của truyền thống “kính lão, trọng thọ” Đồng thời, những giá trị văn hóa và đạo đức trong việc chăm sóc NCT sẽ được củng cố và phát triển thông qua các quy định pháp luật Trong bối cảnh dân số già hóa nhanh chóng, chính sách pháp luật về NCT đã có những điều chỉnh tích cực nhằm bảo vệ, chăm sóc và nâng cao chất lượng cuộc sống cho thế hệ cao niên trong xã hội.

Pháp luật về quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) không chỉ thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền mà còn phản ánh các giá trị nhân văn toàn cầu Các quy định pháp luật này, mặc dù do Nhà nước ban hành và chỉ áp dụng ở cấp quốc gia, cần phải tuân thủ các tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe NCT đã được ghi nhận trong pháp luật nhân quyền quốc tế Như vậy, pháp luật về quyền chăm sóc sức khỏe của NCT trở thành công cụ để các quốc gia thực hiện trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền này.

Nội dung của pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

Luật pháp Việt Nam cung cấp cơ sở pháp lý cho việc tôn trọng và thực thi quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) Nội dung của pháp luật này được thể hiện qua các quy định cụ thể về quyền lợi và các biện pháp pháp lý hành chính nhằm bảo đảm quyền chăm sóc sức khỏe cho NCT.

1) Các quy định về quyền được bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe Ở Việt Nam, pháp luật bảo vệ quyền của NCT được bình đẳng trong việc tiếp cận và thụ hưởng sự chăm sóc sức khỏe như mọi chủ thể khác trong xã hội. Điều này được thể hiện thông qua nguyên tắc hiến định trong Khoản 1 Điều 38 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế” Trên cơ sở đó, Điều 9 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định về quyền của người bệnh được tôn trọng danh dự, bảo vệ sức khỏe trong khám bệnh, chữa bệnh không bị kỳ thị, phân biệt đối xử; được tôn trọng về tuổi tác, giới tính, dân tộc, tín ngưỡng Mặt khác, do vị thế đặt thù của NCT là nhóm xã hội dễ bị tổn thương về quyền, nên bên cạnh các quy định về bình đẳng chung, pháp luật còn dành sự ưu tiên cho nhóm đối tượng này nhằm giúp họ có khả năng thụ hưởng quyền được chăm sóc sức khỏe một cách đầy đủ như mọi thành viên khác trong xã hội Điều này thể hiện qua các quy định về ưu tiên cho NCT trong khám bệnh, chữa bệnh (theo Luật người cao tuổi năm 2009 và Thông tư sô 35/2011/TT-BYT ngày 15 tháng 10 năm 2011 của Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện chăm sóc sức khỏe của NCT) và các ưu đãi đặc biệt cho NCT yếu thế như miễn phí cấp thẻ BHYT cho NCT từ đủ 80 tuổi trở lên, NCT thuộc hộ nghèo (theo Điều 9 Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội); hay quy định hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại và một phần chi phí trong khám, chữa bệnh cho NCT nghèo (theo Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về khám, chữa bệnh cho người nghèo và Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg ngày

Vào ngày 01 tháng 03 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg, được ký ngày 15 tháng 10 năm 2002, nhằm cải thiện công tác khám và chữa bệnh cho người nghèo.

2) Các quy định về quyền được phòng bệnh, được theo dõi sức khỏe và khám sức khỏe định kỳ

Khoản 2 Điều 41 Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 quy định rằng Bộ Y tế và Tổng cục Thể dục thể thao có trách nhiệm hướng dẫn phương pháp rèn luyện thân thể, nghỉ ngơi và giải trí nhằm phòng, chống bệnh tật cho người cao tuổi Luật người cao tuổi năm 2009 đã làm rõ hơn quyền phòng bệnh của NCT thông qua các quy định về chăm sóc sức khỏe ban đầu, bao gồm tuyên truyền kiến thức sức khỏe, tạo điều kiện cho NCT rèn luyện sức khỏe tại cộng đồng, và theo dõi sức khỏe định kỳ Cụ thể, theo Điều 13 Luật người cao tuổi năm 2009, trạm y tế xã, phường, thị trấn có trách nhiệm đảm bảo quyền phòng bệnh và khám sức khỏe định kỳ cho NCT thông qua việc tuyên truyền, hướng dẫn kỹ năng tự chăm sóc sức khỏe, lập hồ sơ theo dõi sức khỏe và phối hợp với cơ sở y tế để tổ chức kiểm tra sức khỏe định kỳ.

3) Các quy định về quyền được khám bệnh, chữa bệnh

Luật người cao tuổi năm 2009 quy định tại Điều 12 về việc khám và chữa bệnh cho người cao tuổi (NCT), nhấn mạnh ưu tiên khám trước cho NCT từ 80 tuổi trở lên và bố trí giường nằm phù hợp trong bệnh viện Các bệnh viện cần tổ chức khoa lão khoa hoặc dành giường cho NCT, đồng thời đảm bảo phục hồi sức khỏe cho họ sau điều trị cấp tính và hướng dẫn chăm sóc tại nhà Luật cũng khuyến khích kết hợp y học cổ truyền và hiện đại, cũng như hướng dẫn các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc tại tuyến y tế cơ sở Ngoài ra, NCT còn được đảm bảo quyền khám chữa bệnh tại cộng đồng thông qua trách nhiệm của trạm y tế xã, phường, thị trấn.

Theo Khoản 2 Điều 13 của Luật Người cao tuổi, nếu người cao tuổi (NCT) cô đơn bị bệnh nặng không thể đến cơ sở khám chữa bệnh, trạm y tế xã, phường, thị trấn phải cử cán bộ y tế đến khám tại nơi cư trú Luật cũng khuyến khích các tổ chức, cá nhân thực hiện khám bệnh miễn phí cho NCT và khám tại nhà Dựa trên quy định này, vào ngày 22 tháng 11 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1781/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về NCT Việt Nam giai đoạn 2012 – 2020, với mục tiêu đảm bảo quyền khám chữa bệnh cho NCT Cụ thể, đến năm 2015, 100% NCT khi ốm đau sẽ được khám và chăm sóc, và đến năm 2020, 90% các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa sẽ tổ chức buồng khám riêng cho NCT và bố trí giường bệnh điều trị nội trú cho họ.

4) Các quy định về quyền được chăm sóc sức khỏe lâu dài

Luật Người cao tuổi năm 2009 đã thiết lập quyền chăm sóc lâu dài cho người cao tuổi mắc bệnh mạn tính, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của Bộ trong việc bảo đảm quyền lợi này.

Y tế đóng vai trò quan trọng trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi (NCT), theo quy định của Bộ Y tế tại Khoản 2 Điều 29, Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn quản lý bệnh mạn tính và xây dựng chương trình phòng bệnh cho NCT, bao gồm các bệnh như tim mạch, tiểu đường và Alzheimer Thông tư số 35/2011/TT-BYT cũng quy định về phục hồi chức năng cho NCT bị tàn tật nhằm ngăn ngừa và phục hồi di chứng từ các bệnh mạn tính Hơn nữa, Điều 6 của thông tư này yêu cầu các bệnh viện và trạm y tế xã lập hồ sơ theo dõi sức khỏe và quản lý bệnh mạn tính của NCT theo mẫu quy định, đảm bảo việc chăm sóc sức khỏe được thực hiện đồng bộ và hiệu quả.

5) Các quy định về các biện pháp pháp lý hành chính bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi ở Việt Nam Để tạo cơ sở pháp lý toàn diện cho việc bảo vệ và thúc đẩy quyền được chăm sóc sức khỏe NCT trên thực tế, pháp luật không chỉ ghi nhận nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT mà còn quy định cụ thể các điều kiện, biện pháp bảo đảm hiện thực hóa quyền này Trước hết là các quy định về chính sách BHYT cho NCT nhằm giảm nhẹ gánh nặng chi phí y tế cho NCT, giúp họ có cơ hội tiếp cận, thụ hưởng quyền được chăm sóc sức khỏe dễ dàng và thuận lợi hơn (xem thêm phụ lục 5) Mặt khác, pháp luật còn đặt ra nhiều quy định nhằm huy động sự chung tay, góp sức của cộng đồng vào việc chăm sóc sức khỏe NCT, tạo điều kiện để NCT được chăm sóc sức khỏe hiệu quả và toàn diện hơn nhờ vào nguồn lực xã hội Cụ thể như các quy định về khuyến khích tổ chức, cá nhân khám bệnh, chữa bệnh miễn phí cho NCT và khám bệnh, chữa bệnh cho NCT tại nơi cư trú trong Khoản 3 Điều

Theo Điều 12 và Khoản 3 Điều 13 của Luật Người cao tuổi Bộ Y tế 2009, có quy định về việc xây dựng và phát triển mạng lưới chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi dựa vào cộng đồng trong Chương trình hành động quốc gia giai đoạn 2012 – 2020 Pháp luật cũng đưa ra nhiều biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi, bao gồm tổ chức thực hiện chăm sóc sức khỏe tại cơ sở khám bệnh và cộng đồng, cùng với các biện pháp thanh tra, kiểm tra và giám sát việc thực hiện quyền này Ngoài ra, còn có quy định xử lý các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi.

Vai trò của pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc chính thức hóa và tạo ra tính pháp lý cho quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) tại Việt Nam, nơi mà việc chăm sóc NCT thể hiện giá trị nhân văn truyền thống “kính lão trọng thọ” Mặc dù các quy tắc đạo đức về việc phụng dưỡng và bảo vệ sức khỏe NCT đã tồn tại từ lâu, nhưng chúng không đủ mạnh để bắt buộc toàn xã hội thực hiện Chỉ khi quyền chăm sóc sức khỏe của NCT được công nhận và bảo vệ bởi pháp luật, nó mới trở thành quyền pháp lý có giá trị thực tiễn Điều này giúp tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, đảm bảo quyền này được tuân thủ và bảo vệ bởi nhà nước, từ đó chuyển hóa các giá trị đạo đức thành những quy định pháp lý bắt buộc, góp phần bảo vệ quyền lợi của NCT trong cuộc sống.

Thứ hai, pháp luật là cơ sở hiện thực hóa quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT

Quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) được bảo đảm thực thi thông qua việc thể chế hóa thành các quy định pháp luật, với nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền cai trị xã hội bằng pháp luật Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý quyền lực để triển khai các quy định, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và đảm bảo các quyền và tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền chăm sóc sức khỏe của NCT, tạo nền tảng thiết yếu cho việc hiện thực hóa quyền này.

25 Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (2011), tlđd 14, tr 47.

Thứ ba, pháp luật là công cụ bảo vệ quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT khỏi sự xâm phạm từ các chủ thể khác

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) Tuy nhiên, sự tùy tiện và lạm quyền của các cơ quan nhà nước có thể gây tổn hại đến quyền lợi của NCT Do là nhóm yếu thế trong xã hội, NCT gặp khó khăn trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình, khiến họ dễ bị tổn thương bởi các thành viên khác Vì vậy, quyền chăm sóc sức khỏe của NCT cần được ghi nhận trong pháp luật để được bảo vệ khỏi sự xâm hại Pháp luật không chỉ là chuẩn mực công bằng mà còn là công cụ đo lường hành vi của mọi người, bao gồm cả cơ quan nhà nước, từ đó tạo ra hành lang an toàn cho NCT thực hiện và bảo vệ quyền lợi của mình.

Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho các đảm bảo chính trị, kinh tế và xã hội, từ đó thúc đẩy và hiện thực hóa quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi.

Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chính trị, chuyển hóa các đường lối và chính sách của Đảng thành quy định pháp lý quốc gia Điều này giúp tư tưởng của Đảng về quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi được hiện thực hóa trong đời sống thực tiễn.

Pháp luật thiết lập khung pháp lý cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần ổn định và phát triển kinh tế Điều này cho phép các biện pháp kinh tế phát huy hiệu quả, tạo điều kiện vật chất để bảo đảm quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi.

Bảo đảm xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi và ý thức của cá nhân, qua đó hình thành văn hóa ứng xử chung trong cộng đồng Điều này giúp tôn trọng và thúc đẩy quyền chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT).

Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, như đã được Nguyễn Quang Hiền (2004) nhấn mạnh trong bài viết của mình trên Khoa học pháp lý Việc áp dụng pháp luật không chỉ giúp duy trì trật tự xã hội mà còn đảm bảo quyền lợi chính đáng của mỗi cá nhân Thông qua các quy định pháp lý, quyền con người được bảo vệ và củng cố, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của xã hội.

Pháp luật tại Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi (NCT) bằng cách hợp pháp hóa các giá trị xã hội liên quan đến quyền này Điều này không chỉ tạo nền tảng để hiện thực hóa và bảo vệ quyền của NCT khỏi sự xâm phạm, mà còn thúc đẩy các điều kiện khác cần thiết cho việc đảm bảo quyền chăm sóc sức khỏe của họ.

Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của một số nước trên thế giới về quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi

Thực trạng quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về quyền được phòng bệnh, được theo dõi sức khỏe và khám sức khỏe định kỳ của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện

Thực trạng quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về quyền được khám bệnh, chữa bệnh của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện

Thực trạng quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về quyền được chăm sóc lâu dài đối với bệnh mạn tính của người cao tuổi và một số giải pháp hoàn thiện

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:25

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
38. Nguyễn Quốc Anh (2011), “Hợp tác Việt Nam – Nhật Bản trong lĩnh vực chăm sóc người cao tuổi”, Dân số và phát triển, (8), http://www.gopfp.gov.vn/so-8-125?p_p_id=62_INSTANCE_Z5vv&p_p_lifecycle=0&p_p_state=normal&p_p_mode=vi...Id=18&_62_INSTANCE_Z5vv_articleId=69765&_62_INSTANCE_Z5vv_version=1.1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Hợp tác Việt Nam – Nhật Bản trong lĩnh vựcchăm sóc người cao tuổi”
Tác giả: Nguyễn Quốc Anh
Năm: 2011
40. “Bệnh không lây nhiễm”, Văn phòng đại diện WHO Việt Nam, 11/3/2013, http://www.wpro.who.int/vietnam/areas/noncommunicable_diseases/fs20130311/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Bệnh không lây nhiễm”
41. Diệu Bình (2014), “Thiếu cán bộ y tế chuyên ngành lão khoa”, Tuyên giáo, 14/12/2014, http://www.tuyengiao.vn/Home/Y-te-cong-dong/Dinh-huong-chi-dao/71334/Thieu-can-bo-y-te-chuyen-nganh-Lao-khoa Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Thiếu cán bộ y tế chuyên ngành lão khoa”
Tác giả: Diệu Bình
Năm: 2014
42. Bộ Y tế Việt Nam (2015), Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2014, Nxb. Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2014
Tác giả: Bộ Y tế Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Y học
Năm: 2015
43. Lê Dung (2013), “Già hóa dân số và những thách thức trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi”, Quảng Bình, 23/12/2013, http://www.baoquangbinh.vn/suc-khoe/201312/gia-hoa-dan-so-va-nhung-thach-thuc-trong-cham-soc-suc-khoe-nguoi-cao-tuoi-2112068/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Già hóa dân số và những thách thức trong chăm sóc sứckhỏe người cao tuổi”
Tác giả: Lê Dung
Năm: 2013
44. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (2011), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về Quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lýluận và Pháp luật về Quyền con người
Tác giả: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng
Nhà XB: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2011
45. Đinh Huy Dương (2012), “Vấn đề già hóa dân số ở Nhật Bản”, Dân số vàphát triển, (6), http://www.gopfp.gov.vn/so-6-135?p_p_id=62_INSTANCE_Z5vv&p_p_lifecycle=0&p_p_state=normal&p_p_mode...INSTANCE_Z5vv_articleId=205987&_62_INSTANCE_Z5vv_version=1.0 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Vấn đề già hóa dân số ở Nhật Bản”, Dân số và"phát triển
Tác giả: Đinh Huy Dương
Năm: 2012
46. Điểm tin y tế ngày 26-29/9/2014, Bộ Y tế,http://moh.gov.vn/news/Pages/DiemTinYTeTuCacBaoCao.aspx?ItemID=190&QAItemID=190&sId=1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điểm tin y tế ngày 26-29/9/2014
47. Điểm tin y tế ngày 2/10/2014, Bộ Y tế,http://moh.gov.vn/news/Pages/DiemTinYTeTuCacBaoCao.aspx?ItemID=193&QAItemID=193&sId=1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điểm tin y tế ngày 2/10/2014
48. Điểm tin y tế ngày 4-6/9/2014, Bộ Y tế,http://moh.gov.vn/news/Pages/DiemTinYTeTuCacBaoCao.aspx?ItemID=195&QAItemID=195&sId=1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điểm tin y tế ngày 4-6/9/2014
49. Nguyễn Ngọc Điệp (1999), 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam”, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Ngọc Điệp
Nhà XB: Nxb. Thànhphố Hồ Chí Minh
Năm: 1999
51. Nguyễn Quang Hiền (2004), “Pháp luật là phương tiện quan trọng bảo vệquyền con người”, Khoa học pháp lý, (1),http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/index.php?option=com_content&view=article&catid=95:ctc20041&id=307:tc2004so1plptqtbvcn&Itemid=107 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Pháp luật là phương tiện quan trọng bảo vệ"quyền con người”
Tác giả: Nguyễn Quang Hiền
Năm: 2004
52. Phạm Hoạch (2014), “Khắc phục những bất cập trong việc khám chữa bệnhcho người cao tuổi”, Quảng Ninh, 06/9/2014,http://baoquangninh.com.vn/doi-song/201409/khac-phuc-nhung-bat-cap-trong-viec-kham-chua-benh-cho-nguoi-cao-tuoi-2240794/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Khắc phục những bất cập trong việc khám chữa bệnh"cho người cao tuổi”
Tác giả: Phạm Hoạch
Năm: 2014
53. Phạm Vũ Hoàng (2013), Một số giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số giải pháp nâng cao chất lượng chăm sócngười cao tuổi Việt Nam
Tác giả: Phạm Vũ Hoàng
Năm: 2013
54. Lan Hương (2012), “Các nước Bắc Âu với chính sách chăm sóc người cao tuổi”, Cộng sản, Chuyên đề (62) 2/2012, tr. 74 – 76 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Các nước Bắc Âu với chính sách chăm sóc người caotuổi”
Tác giả: Lan Hương
Năm: 2012
55. Nguyễn Thị Lan (2009), “Các chính sách đối với người cao tuổi ở Hàn Quốc và khả năng vận dụng vào Việt Nam”, Lao động và Xã hội, (373), tr.29 – 30 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Các chính sách đối với người cao tuổi ở HànQuốc và khả năng vận dụng vào Việt Nam”
Tác giả: Nguyễn Thị Lan
Năm: 2009
56. Sao Mai (2015), Ngày Quốc tế Người cao tuổi (1-10): Giúp người cao tuổi sống vui, sống khỏe, Trung tâm truyền thông – giáo dục sức khỏe Đồng Nai, 01/10/2015, http://suckhoedongnai.vn/bai/1606/ngay-quoc-te-nguoi-cao-tuoi-(110)-giup-nguoi-cao-tuoi-song-vui-song-khoe Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giúp người cao tuổisống vui, sống khỏe
Tác giả: Sao Mai
Năm: 2015
58. Ngô Thị Mến (2015), “Kiểm tra, giám sát kết quả 5 năm thực hiện Luật NCT và 3 năm thực hiện Chương trình Hành động Quốc gia về NCT Việt Nam giai đoạn 2012-2020”, Hội Người cao tuổi Việt Nam, 11/8/2015, http://hoinguoicaotuoi.vn/c/kiem-tra-giam-sat-ket-qua-5-nam-thuc-hien-luat- Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Kiểm tra, giám sát kết quả 5 năm thực hiện Luật NCTvà 3 năm thực hiện Chương trình Hành động Quốc gia về NCT Việt Namgiai đoạn 2012-2020”
Tác giả: Ngô Thị Mến
Năm: 2015
60. Thu Nguyên (2013), “Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại cộng đồng: Mỗi giây có một người tròn 60 tuổi”, 20/11/2013, http://giadinh.net.vn/dan- so/cham-soc-suc-khoe-nguoi-cao-tuoi-tai-cong-dong-moi-giay-co-mot-nguoi-tron-60-tuoi-2013112011286192.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại cộng đồng: Mỗigiây có một người tròn 60 tuổi”
Tác giả: Thu Nguyên
Năm: 2013
61. Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học phát triển, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý học phát triển
Tác giả: Vũ Thị Nho
Nhà XB: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 1999

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

CEDAW Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against Women) - Pháp luật về quyền được chăm sóc sức khảo của người cao tuổi (luận văn thạc sỹ luật)
ng ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against Women) (Trang 4)
Nguồn: tác giả lập bản biểu dựa trên mô hình phác họa một ca lâm sàng lão khoa điển hình của Hội lão khoa thành phố Hồ Chí Minh. - Pháp luật về quyền được chăm sóc sức khảo của người cao tuổi (luận văn thạc sỹ luật)
gu ồn: tác giả lập bản biểu dựa trên mô hình phác họa một ca lâm sàng lão khoa điển hình của Hội lão khoa thành phố Hồ Chí Minh (Trang 96)
NCT không thuộc các trường hợp trên Tham gia tự nguyện, đóng theo hình thức hộ gia đình. - Pháp luật về quyền được chăm sóc sức khảo của người cao tuổi (luận văn thạc sỹ luật)
kh ông thuộc các trường hợp trên Tham gia tự nguyện, đóng theo hình thức hộ gia đình (Trang 99)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w