Pháp luật về phương pháp khấu trừ thuế trong thuế
Tổng quan về thuế giá trị gia tăng
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của thuế GTGT
Thuế giá trị gia tăng (GTGT), có nguồn gốc từ thuế doanh thu, lần đầu tiên được áp dụng tại Pháp vào năm 1954 với tên gọi Taxe Sur La Valeur Ajoutée (TVA) Hiện nay, thuế GTGT đã được áp dụng rộng rãi ở khoảng 130 quốc gia, bao gồm các nước thuộc Liên minh Châu Âu, châu Phi, châu Mỹ La Tinh và một số quốc gia châu Á như Việt Nam Tại Việt Nam, thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu áp dụng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế tập thể và cá thể, theo Điều lệ thuế công thương nghiệp ban hành vào năm 1966.
Vào năm 1990, Quốc Hội đã ban hành luật thuế Doanh thu áp dụng cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên toàn quốc Căn cứ tính thuế dựa vào doanh thu phát sinh và thuế suất, dẫn đến hiện tượng chồng thuế khi hàng hóa qua nhiều khâu lưu thông Do đó, thuế doanh thu không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho sự ra đời của thuế GTGT Được triển khai qua nhiều giai đoạn, thuế GTGT chính thức được áp dụng từ ngày 01/01/1999 sau khi Bộ Tài Chính ban hành Quyết Định số 468 vào ngày 05/07/1993 Sau thời gian thí điểm, Quốc Hội đã thông qua luật thuế GTGT mới vào ngày 03/06/2008, có hiệu lực từ 01/01/2009, nhằm phù hợp hơn với tình hình thực tế.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), việc áp dụng thuế GTGT tại nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, không làm thay đổi giá cả hàng hóa và dịch vụ một cách đáng kể Mặc dù có thể có sự giảm nhẹ trong sản xuất và tiêu dùng trong thời gian đầu, nhưng mức độ này là không đáng kể Điều này cho thấy thuế GTGT đã giúp ổn định giá cả, mở rộng lưu thông hàng hóa, thúc đẩy phát triển sản xuất và tăng cường xuất khẩu Để phù hợp với sự phát triển của nền sản xuất trong nước và quốc tế, thuế GTGT đã trải qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung.
Theo Luật thuế GTGT năm 2008, thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa và dịch vụ trong quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng Đây là loại thuế gián thu, nghĩa là các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế, nhưng người tiêu dùng mới là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ Cách thức này giúp cơ quan quản lý thu thuế hạn chế phản ánh tiêu cực về thuế từ phía người dân.
Thuế GTGT có nhiều điểm tương đồng với các loại thuế thu vào HHDV khác nhưng có thể nhận diện thuế GTGT qua những đặc điểm đặc trưng sau:
Thuế GTGT có phạm vi tác động rộng, đánh vào hầu như tất cả HHDV được tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam
Thuế GTGT là loại thuế áp dụng cho hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ Theo nguyên tắc, tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng tại Việt Nam đều phải chịu thuế GTGT.
Thuế GTGT có căn cứ tính thuế là phần giá trị tăng thêm của HHDV trong các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng
Để khắc phục tình trạng thuế thu trùng lắp trong quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng, thuế GTGT chỉ được áp dụng trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ Phần giá trị tăng thêm này được xác định là chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào Do đó, số thuế GTGT đã nộp ở giai đoạn trước sẽ không được tính cho giai đoạn tiếp theo Điều này đảm bảo rằng thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, tạo điều kiện cho việc khấu trừ số thuế GTGT phải nộp ở giai đoạn tiếp theo.
1 Thuế gián thu là thuế thu đối với người tiêu dùng thông qua việc nộp thuế của người sản xuất, kinh doanh (theo
Trong quá trình sản xuất và kinh doanh, thuế GTGT đầu ra của doanh nghiệp này trở thành đầu vào của doanh nghiệp khác Để bảo vệ lợi ích của mình, các chủ thể kinh doanh cần yêu cầu bên bán cung cấp hóa đơn đầy đủ và hợp pháp, nhằm làm cơ sở cho việc khấu trừ và hoàn thuế GTGT.
Người tiêu dùng là đối tượng cuối cùng chịu trách nhiệm về thuế giá trị gia tăng (GTGT), tức là số tiền thuế mà Nhà nước thu được dựa trên giá cung ứng hàng hóa và dịch vụ cho họ.
Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, trong đó người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một Người tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ là người thực sự chịu thuế GTGT, trong khi người nộp thuế là các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, họ chỉ thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thay cho người tiêu dùng.
Thuế GTGT đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, góp phần lành mạnh hóa nền kinh tế Nó giúp tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh bằng cách yêu cầu sử dụng hệ thống hóa đơn, chứng từ, từ đó giúp Nhà nước kiểm soát hiệu quả hoạt động sản xuất và nhập khẩu hàng hóa.
Thuế GTGT đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nền sản xuất trong nước và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trên thị trường quốc tế Cụ thể, thuế GTGT được áp dụng ngay từ khi hàng nhập khẩu vào Việt Nam, đồng thời mức thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu giúp doanh nghiệp có cơ hội hoàn thuế GTGT, từ đó khuyến khích hoạt động xuất khẩu.
Thuế GTGT giúp loại bỏ tình trạng thuế chồng thuế, giảm thiểu tác động tiêu cực đến người nộp thuế và người chịu thuế Phương pháp đánh thuế này được coi là thông minh và tiện lợi, đồng thời đơn giản hóa quy trình quản lý thuế cho cơ quan thuế.
Thuế GTGT là một loại thuế mới ở Việt Nam, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nhưng vẫn thể hiện những ưu điểm nhất định Bài viết sẽ phân tích các quy định pháp luật liên quan đến thuế GTGT, đặc biệt là phương pháp khấu trừ thuế và các quy định pháp luật hiện hành.
1.1.2 Đối tượng chịu thuế GTGT và người nộp thuế GTGT
1.1.2.1 Đối tượng chịu thuế GTGT Điều 3 luật thuế GTGT năm 2008 quy định: “Hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT, trừ các đối tượng không chịu thuế GTGT” Theo như quy định này, để trở thành đối tượng chịu thuế GTGT, HHDV đó phải có được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng ở Việt Nam Vì, luật thuế GTGT không quan tâm đến hành vi tác động vào đối tượng chịu thuế mà chỉ quan tâm đến giá trị tăng thêm của HHDV chịu thuế GTGT Vì vậy bất cứ khi nào, ở đâu trên lãnh thổ Việt Nam, HHDV có phát sinh giá trị tăng thêm do hành vi tác động của người nộp thuế thì HHDV đó là đối tượng chịu thuế GTGT
Luật thuế GTGT quy định các đối tượng không chịu thuế GTGT, mặc dù những đối tượng này tham gia vào hoạt động kinh doanh và tạo ra giá trị tăng thêm Tương tự như nhiều quốc gia khác, Việt Nam cũng có các quy định loại trừ một số đối tượng khỏi diện chịu thuế GTGT Luật thuế GTGT năm 2008 đã điều chỉnh một số đối tượng từ chịu thuế sang không chịu thuế và ngược lại, giảm số nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế từ 28 xuống còn 25 nhóm, theo quy định tại Điều 5.
Những nội dung pháp lý cơ bản về khấu trừ thuế trong thuế GTGT
1.2.1 Xác định số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế 1.2.1.1 Công thức tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế
Theo quy định tại khoản 1 điều 10 của luật thuế GTGT năm 2008, số thuế GTGT phải nộp được xác định bằng cách lấy số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào.
Số thuế GTGT phải nộp = số thuế GTGT đầu ra – số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
Số thuế GTGT đầu ra được xác định bằng tổng số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên hóa đơn GTGT Thuế GTGT trên hóa đơn được tính bằng giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế nhân với thuế suất GTGT tương ứng Nếu chứng từ ghi giá thanh toán đã bao gồm thuế GTGT, thuế GTGT đầu ra sẽ được tính bằng giá thanh toán trừ đi giá tính thuế theo quy định tại điểm k khoản 1 điều 7 của luật thuế GTGT năm 2008.
Giá chưa có thuế GTGT = Giá thanh toán
1+ thuế suất của hàng hóa, dịch vụ (%)
Số thuế GTGT đầu vào có thể được khấu trừ là tổng số thuế GTGT trên hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ, bao gồm cả tài sản cố định, được sử dụng cho sản xuất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT Ngoài ra, số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hóa nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài cũng được tính vào số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.
Bộ Tài chính quy định rằng các tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân tại Việt Nam và cá nhân nước ngoài có hoạt động kinh doanh hoặc thu nhập phát sinh tại Việt Nam sẽ phải tuân thủ các quy định liên quan.
Khi hàng hóa và dịch vụ mua vào có chứng từ ghi giá thanh toán đã bao gồm thuế GTGT, cơ sở có thể xác định giá không có thuế và thuế GTGT đầu vào dựa vào giá đã có thuế cùng với phương pháp tính được nêu tại Điểm 1.10, Mục I, Phần B Thông tư 129/2008/TT-BTC.
Ví dụ: Trong kỳ, Công ty A thanh toán dịch vụ đầu vào được tính khấu trừ là loại đặc thù
Tổng giá thanh toán 110 triệu đồng (giá có thuế GTGT), dịch vụ này chịu thuế là 10%, số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ tính như sau:
Giá chưa có thuế là 100 triệu đồng, thuế GTGT là 10 triệu
Khi nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, đối tượng nộp thuế GTGT sẽ rơi vào 3 trường hợp:
Nếu số thuế GTGT đầu vào thấp hơn số thuế GTGT đầu ra, người nộp thuế sẽ được khấu trừ thuế đầu vào Điều này có nghĩa là người nộp thuế chỉ cần thanh toán phần chênh lệch giữa số thuế đầu ra và số thuế đầu vào đã nộp.
Nếu số thuế GTGT đầu vào đã nộp bằng số thuế GTGT đầu ra phát sinh, người nộp thuế sẽ không cần phải nộp thuế GTGT, vì số thuế phải nộp lúc này là 0.
Nếu số thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu vào đã nộp vượt quá số thuế GTGT đầu ra, người nộp thuế sẽ được hoàn lại phần chênh lệch giữa thuế đầu vào và thuế đầu ra.
1.2.1.2 Khấu trừ thuế GTGT đầu vào
Theo Điều 12 của luật thuế GTGT năm 2008, các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có quyền khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh HHDV chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ
Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ (HHDV) được sử dụng cho cả sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế chỉ được khấu trừ đối với phần thuế GTGT đầu vào liên quan đến HHDV chịu thuế Do đó, cơ sở kinh doanh cần phải hạch toán riêng phần thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ Nếu không thể hạch toán riêng, thuế đầu vào sẽ được khấu trừ theo tỷ lệ phần trăm giữa doanh số chịu thuế GTGT và tổng doanh số HHDV bán ra.
Theo quy định trước đây về thuế GTGT, thuế đầu vào cho tài sản cố định lớn chỉ được khấu trừ dần hoặc hoàn thuế theo quy định pháp luật, nhưng chưa có hướng dẫn chi tiết cho việc này Khấu trừ và hoàn thuế GTGT đối với tài sản cố định là
8 Xem đọan 2 điềm c khỏan 1 điều 7 NĐ 158 ngày 10/12/2003 quy định chi tiết thi hành thuế GTGT và luật sửa đổi một số điều luật thuế GTGT
Theo bài viết của Nguyễn Bá Phú (2008) trên tạp chí tài chính, Luật thuế GTGT 2008 đã được hướng dẫn thi hành theo thông tư TT 32/2007/TT-BTC, tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, đã xuất hiện một số vướng mắc liên quan đến các quy định này.
Thông tư 32/2007/TT-BTC quy định rằng cơ sở kinh doanh không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào cho hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT, mà phải tính vào nguyên giá tài sản cố định hoặc chi phí kinh doanh Đối với tài sản cố định dùng cho sản xuất hàng hóa, dịch vụ, toàn bộ số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, trừ trường hợp tài sản cố định chuyên dùng cho sản xuất vũ khí, khí tài phục vụ quốc phòng, an ninh, khi đó thuế GTGT không được khấu trừ mà tính vào nguyên giá tài sản Luật thuế GTGT năm 2008 đã sửa đổi quy định, cho phép khấu trừ toàn bộ thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT, từ đó khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào tài sản cố định Quy định chi tiết về khấu trừ tài sản cố định được hướng dẫn trong Thông tư 129/2008/TT-BTC.
Thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định không được khấu trừ và sẽ được tính vào nguyên giá trong một số trường hợp cụ thể Những trường hợp này bao gồm tài sản cố định chuyên dùng cho sản xuất vũ khí và khí tài phục vụ quốc phòng, an ninh; nhà làm trụ sở văn phòng cùng các thiết bị phục vụ hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp tái bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ, kinh doanh chứng khoán, cũng như các bệnh viện và trường học Ngoài ra, tàu bay dân dụng và du thuyền không sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách hay du lịch cũng thuộc danh sách này.
10 Xem điểm 2, mục II, phần A , TT 32/2007/TT – BTC ngày 09/4/2007 của Bộ Tài Chính về hướng dẫn chi tiết thi hành thuế GTGT
11 Xem điểm c2, khỏan 1, mục III, phần B TT 32/2007/TT – BTC ngày 09/4/2007của Bộ Tài Chính về hướng dẫn chi tiết thi hành thuế GTGT sạn
Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa và dịch vụ liên quan đến tài sản cố định của doanh nghiệp, như nhà ăn, nhà nghỉ, nhà ở miễn phí, phòng thay đồ, nhà để xe, nhà vệ sinh, và bể nước phục vụ cho người lao động trong khu vực sản xuất, kinh doanh, đều được khấu trừ toàn bộ Điều này cũng áp dụng cho các trạm y tế phục vụ công nhân trong các khu công nghiệp.