1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

pháp luật về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng

95 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Về Lựa Chọn Nhà Thầu Trong Hoạt Động Xây Dựng
Tác giả Nguyễn Đức Thắng
Trường học Trường Đại Học Luật Tp.Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Học
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2007
Thành phố Tp.Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 95
Dung lượng 0,98 MB

Cấu trúc

  • 1.1 Khái luận nhà thầu trong hoạt động xây dựng (13)
    • 1.1.1 Khái niệm nhà thầu trong hoạt động xây dựng và một số khái niệm liên (13)
    • 1.1.2 Đặc điểm của lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng (16)
    • 1.1.3 Phân loại nhà thầu trong hoạt động xây dựng (17)
  • 1.2 Các trường hợp lựa chọn nhà thầu trong họat động xây dựng (22)
    • 1.2.1 Lựa chọn nhà thầu tư vấn xây dựng (23)
    • 1.2.2 Lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng (25)
    • 1.2.3 Lựa chọn tổng thầu và nhà thầu EPC trong hoạt động xây dựng (26)
  • 1.3 Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về lựa chọn nhà thầu (29)
    • 1.3.1 Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng ở nước ta (29)
    • 1.3.2 Kinh nghiệm về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng của một số quốc gia và tổ chức quốc tế (36)
      • 1.3.2.1 Kinh nghiệm về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng của Cộng hòa liên bang Nga (36)
      • 1.3.2.2 Kinh nghiệm về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng của Ngân hàng thế giới (WB) (36)
      • 1.3.2.3 Kinh nghiệm về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) (39)
  • 2.1 Các hình thức lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng (41)
    • 2.1.1 Đấu thầu rộng rãi (43)
    • 2.1.2 Đấu thầu hạn chế (44)
    • 2.1.3 Chỉ định thầu (0)
  • 2.2 Phương thức đấu thầu trong hoạt động xây dựng (54)
    • 2.2.1 Đấu thầu một túi hồ sơ (54)
    • 2.2.2 Đấu thầu hai túi hồ sơ (54)
    • 2.2.3 Đấu thầu hai giai đoạn (56)
  • 2.3 Trình tự thực hiện đấu thầu trong hoạt động xây dựng (57)
    • 2.3.1 Chuẩn bị đấu thầu (57)
    • 2.3.2. Mời thầu (59)
    • 2.3.3 Tổ chức đấu thầu (60)
    • 2.3.4 Đánh giá hồ sơ dự thầu (62)
    • 2.3.5 Trình duyệt, thẩm định, phê duyệt và thông báo kết quả đấu thầu (67)
  • Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LỰA CHỌN NHÀ THẦU TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG (11)
    • 3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng (70)
    • 3.2 Giải pháp hoàn thiện mang tính chất chung (72)
    • 3.3 Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật cụ thể (74)
      • 3.3.1 Về khái niệm nhà thầu xây dựng và tư cách hợp lệ của nhà thầu (74)
      • 3.3.2 Về nhà thầu phụ (76)
      • 3.3.3 Về trách nhiệm của người có thẩm quyền (77)
      • 3.3.4 Về các hình thức lựa chọn nhà thầu trong họat động xây dựng (0)
      • 3.3.5 Về lựa chọn nhà thầu tư vấn là cá nhân (0)
      • 3.3.6 Về thời hạn trong đấu thầu (83)
      • 3.3.7 Đối với việc đăng tải thông tin về đấu thầu (84)
      • 3.3.8 Về việc xây dựng mẫu tài liện đấu thầu (0)
      • 3.3.9 Về việc đánh giá hồ sơ dự thầu đối với góp thầu xây lắp, mua sắm hàng hóa và gói thầu EPC (0)
      • 3.3.10 Về khái niệm sử dụng vốn Nhà nước (86)
      • 3.3.11 Về chống khép kín trong đấu thầu (0)
      • 3.3.12 Một số kiến nghị khác (88)
  • Kết luận (90)

Nội dung

Khái luận nhà thầu trong hoạt động xây dựng

Khái niệm nhà thầu trong hoạt động xây dựng và một số khái niệm liên

Pháp luật về lựa chọn nhà thầu, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, được ban hành nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng vốn Nhà nước Luật này đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch, đồng thời ngăn chặn các hành vi tiêu cực từ các tổ chức và cá nhân trong quá trình đầu tư xây dựng Mục tiêu là để quy trình này diễn ra theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước, tuân thủ nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh.

Theo khoản 22 Điều 3 Luật Xây dựng, nhà thầu trong lĩnh vực xây dựng được định nghĩa là tổ chức hoặc cá nhân có đủ năng lực hoạt động và năng lực hành nghề xây dựng khi tham gia vào các hợp đồng liên quan đến hoạt động xây dựng.

Theo Điều 4 Luật Đấu thầu, nhà thầu phải là tổ chức hoặc cá nhân có đủ tư cách hợp lệ Đối với nhà thầu là tổ chức, cần có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư, đồng thời phải hạch toán kinh tế độc lập và không bị kết luận tài chính không lành mạnh Đối với nhà thầu là cá nhân, yêu cầu có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, đăng ký hoạt động hợp pháp hoặc chứng chỉ chuyên môn, và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo quy định của Luật Đấu thầu, nhà thầu được xác định là tổ chức "đang lâm vào tình trạng phá sản hoặc nợ đọng không có khả năng chi trả".

1 Khoản 3 Điều 7 Luật Đấu thầu không có tư cách hợp lệ là chưa phù hợp bởi những lẽ sau:

Theo Điều 3 Luật Phá sản 2004, doanh nghiệp và hợp tác xã được coi là lâm vào tình trạng phá sản khi không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi có yêu cầu từ chủ nợ Điều này cho thấy rằng "nợ đọng không có khả năng chi trả" là dấu hiệu chính để xác định tình trạng phá sản của doanh nghiệp Vì vậy, quy định trong Luật Đấu thầu hiện tại chưa phù hợp với Luật Phá sản, có thể gây khó khăn cho các bên liên quan trong việc xác định tư cách hợp lệ của nhà thầu.

Luật Đấu thầu quy định rằng nhà thầu đang trong tình trạng phá sản hoặc nợ đọng không có khả năng chi trả sẽ bị coi là không hợp lệ, nhưng điều này thiếu cơ sở rõ ràng để chủ đầu tư xác định tình trạng của nhà thầu Tại phiên thảo luận về Dự thảo Luật Đấu thầu ngày 22/11/2005, đại biểu Đinh La Thăng đã chỉ ra rằng quy định này không hợp lý, vì không thể kiểm soát hoàn toàn tình hình tài chính của nhà thầu để xác định tư cách hợp lệ Ông nhấn mạnh cần có quy định rõ ràng để gắn trách nhiệm của nhà thầu với công trình Tuy nhiên, ý kiến này không được tiếp thu, dẫn đến những bất cập vẫn chưa được giải quyết trong Dự thảo luật khi được thông qua.

Việc quy định rằng nhà thầu là cá nhân "bị truy cứu trách nhiệm hình sự" không có tư cách hợp lệ khi tham gia đấu thầu là không hợp lý, vì Điều này có thể dẫn đến việc loại bỏ những nhà thầu có khả năng nhưng gặp phải vấn đề pháp lý tạm thời.

Hiến pháp 1992 quy định rằng "không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật" Điều này khẳng định quyền Hiến định của công dân trong việc bảo vệ sự công bằng và quyền lợi pháp lý của họ.

Theo Khoản 3 Điều 8 Luật Đấu thầu, việc hạn chế quyền của công dân, đặc biệt là quyền của nhà thầu cá nhân, là không phù hợp khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Theo Luật Đấu thầu, cá nhân và tổ chức chỉ cần có tư cách hợp lệ theo quy định pháp luật để trở thành nhà thầu Trong khi đó, Luật Xây dựng yêu cầu các cá nhân và tổ chức phải có đủ năng lực theo quy định của luật này khi tham gia vào quan hệ hợp đồng xây dựng mới có tư cách nhà thầu.

Luật Xây dựng hiện hành chưa chính xác khi định nghĩa về nhà thầu trong hoạt động xây dựng Theo luật, một tổ chức hoặc cá nhân chỉ được coi là "nhà thầu" khi tham gia vào hợp đồng xây dựng, trong khi trước đó họ chưa có tư cách này Điều này tạo ra bất cập trong quy định, vì cần phải công nhận tư cách nhà thầu từ giai đoạn lựa chọn để đảm bảo tính công khai, công bằng và hiệu quả trong quá trình này Nếu không có quy định này, sẽ khó khăn trong việc xử lý các hành vi dàn xếp và thông đồng giữa các nhà thầu, dẫn đến nhiều vấn đề phát sinh khác.

Theo Luật Xây dựng, các công ty thành viên trong tổng công ty hoặc thuộc công ty mẹ có đủ điều kiện tham gia đấu thầu rộng rãi cho một gói thầu, nhưng bị cấm tham gia đấu thầu hạn chế, chỉ cho phép một nhà thầu tham gia tối đa 3 gói thầu Đây là điểm khác biệt của pháp luật về lựa chọn nhà thầu trong lĩnh vực xây dựng so với quy định chung về lựa chọn nhà thầu.

Chúng ta có thể nhìn nhận đấu thầu từ các phương diện sau:

Đấu thầu là một phương thức cạnh tranh quan trọng trong lĩnh vực xây dựng, giúp chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu phù hợp cho các giai đoạn như khảo sát, thiết kế, thi công và xây lắp Phương thức này đảm bảo rằng nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật cho dự án xây dựng.

Đấu thầu là một hình thức kinh doanh quan trọng giúp nhà thầu có cơ hội nhận thầu cho các công việc như khảo sát, thiết kế, mua sắm máy móc và xây dựng công trình.

3 Khoản 2 Điều 100 Luật Xây dựng

Đấu thầu là phương thức quản lý dự án đầu tư của Nhà nước, giúp lựa chọn nhà thầu phù hợp với yêu cầu của bên mời thầu thông qua cạnh tranh giữa các nhà thầu.

Đặc điểm của lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng

Lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng là một bước quan trọng nhằm đảm bảo nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm để cung cấp sản phẩm xây dựng đáp ứng yêu cầu của bên mời thầu, từ đó đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cho dự án Hoạt động xây dựng bao gồm nhiều giai đoạn như lập quy hoạch, dự án đầu tư, khảo sát, thiết kế, thi công, giám sát và quản lý dự án, cùng với việc lựa chọn nhà thầu và các hoạt động liên quan khác Do đó, việc lựa chọn nhà thầu chính là một phần không thể thiếu trong quy trình xây dựng.

Khi lựa chọn nhà thầu xây dựng, người mua không chỉ đơn thuần chọn hàng hóa có sẵn mà còn cần xem xét nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm kinh nghiệm, năng lực và uy tín của nhà thầu Quy trình này đòi hỏi sự đánh giá kỹ lưỡng và trực giác, nhằm đảm bảo rằng dự án sẽ được thực hiện đúng tiến độ và chất lượng.

Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương đã công bố một báo cáo về thực trạng quản lý đấu thầu tại Việt Nam, đồng thời nêu bật những kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này Báo cáo được phát hành bởi Nhà xuất bản Giao thông Vận tải vào năm 2004, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các vấn đề hiện tại và giải pháp tiềm năng cho quản lý đấu thầu hiệu quả hơn.

Hoạt động chọn lựa nhà thầu trong xây dựng là rất quan trọng, vì sản phẩm và dịch vụ xây dựng là hàng hóa đặc biệt, bao gồm cả dịch vụ tư vấn và các hạng mục công trình Chất lượng, tiến độ và giá cả của sản phẩm xây dựng phụ thuộc vào nhà thầu và mối quan hệ hợp đồng với chủ đầu tư Công trình xây dựng được hình thành từ thiết kế, lao động, vật liệu và thiết bị, liên kết với đất và có thể bao gồm cả phần dưới mặt đất, trên mặt đất, dưới mặt nước và trên mặt nước.

Việc lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng không chỉ phải tuân thủ Luật Đấu thầu mà còn phải tuân theo các quy định trong Luật Xây dựng Hiện nay, có một số mâu thuẫn và chồng chéo giữa hai văn bản này, gây khó khăn trong việc áp dụng Luật Đấu thầu là luật chung về đấu thầu, trong khi Luật Xây dựng quy định riêng về lựa chọn nhà thầu xây dựng Các quy định về lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây dựng được ban hành từ năm 2003, trong khi Luật Đấu thầu chỉ được ban hành vào cuối năm 2005, dẫn đến sự không thống nhất giữa hai văn bản này.

Việc lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng là rất quan trọng để đảm bảo tìm được nhà thầu chính, tổng thầu và thầu phụ có đủ năng lực hoạt động và phù hợp với loại hình công trình Theo Nghị định 16/2005/NĐ-CP, các điều kiện về năng lực của tổ chức, cá nhân trong xây dựng được quy định rõ ràng Cụ thể, Điều 48 yêu cầu chủ đầu tư phải tuân thủ các quy định về năng lực khi lựa chọn nhà thầu và chịu trách nhiệm pháp lý nếu lựa chọn nhà thầu không đủ điều kiện năng lực cho công việc.

Phân loại nhà thầu trong hoạt động xây dựng

Nhà thầu trong xây dựng là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực hoạt động xây dựng, tham gia vào quá trình lựa chọn và ký kết hợp đồng Năng lực này được xác định qua các điều kiện như khả năng lập dự án, quản lý, khảo sát, thiết kế, thi công và giám sát công trình Đối với tổ chức kinh tế, năng lực hoạt động thể hiện qua kinh nghiệm, khả năng tài chính, thiết bị và năng lực quản lý của tổ chức.

Năng lực hành nghề xây dựng của cá nhân được xác định dựa trên cấp bậc, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp Những cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thiết kế quy hoạch, khảo sát, thiết kế công trình và giám sát thi công cần có chứng chỉ hành nghề phù hợp, chịu trách nhiệm về công việc của mình Chứng chỉ hành nghề là giấy xác nhận năng lực cấp cho kỹ sư, kiến trúc sư có đủ trình độ và kinh nghiệm trong các lĩnh vực này Chứng chỉ được quy định theo mẫu thống nhất và có giá trị trên toàn quốc, xác định phạm vi và lĩnh vực hành nghề của người được cấp.

Trong ngành xây dựng, mối quan hệ giữa nhà thầu và chủ đầu tư được phân loại thành ba loại chính: Tổng thầu xây dựng, nhà thầu chính và nhà thầu phụ.

Theo Điều 3, khoản 23 của Luật Xây dựng, Tổng thầu xây dựng là nhà thầu ký hợp đồng trực tiếp với chủ đầu tư để thực hiện toàn bộ hoặc một phần công việc trong dự án đầu tư xây dựng Tổng thầu xây dựng bao gồm nhiều hình thức khác nhau.

- Tổng thầu thi công xây dựng công trình;

- Tổng thầu thiết kế và thi công xây dựng công trình;

- Tổng thầu thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình;

- Tổng thầu lập dự án đầu tư xây dựng công trình, thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình

Theo chúng tôi, khái niệm về Tổng thầu trong Luật Xây dựng chưa đầy đủ, chỉ nêu rằng Tổng thầu là nhà thầu nhận thầu toàn bộ một loại công việc hoặc toàn bộ công việc của dự án đầu tư xây dựng Tuy nhiên, định nghĩa này không đề cập đến hình thức Tổng thầu thực hiện hai hoặc ba loại công việc của dự án Ngoài ra, định nghĩa này cũng gặp hạn chế tương tự như đã phân tích ở mục 1.1.1 của Chương này, cho thấy sự thiếu sót về mặt kỹ thuật lập pháp Do đó, cần có sự điều chỉnh kịp thời để đảm bảo tính logic của pháp luật.

Theo Điều 3, khoản 24 của Luật Xây dựng, nhà thầu chính là đơn vị ký hợp đồng trực tiếp với chủ đầu tư để thực hiện các công việc chính trong dự án xây dựng Tuy nhiên, theo Luật Đấu thầu, nhà thầu chính là bên chịu trách nhiệm tham gia đấu thầu, đứng tên dự thầu và thực hiện hợp đồng nếu được chọn Nhà thầu tham gia đấu thầu độc lập được gọi là nhà thầu độc lập, trong khi nhà thầu tham gia cùng với các đơn vị khác trong một đơn dự thầu được gọi là nhà thầu liên danh Sự không tương thích giữa khái niệm nhà thầu trong Luật Xây dựng và Luật Đấu thầu cho thấy có thể các nhà làm luật đã hiểu sai khái niệm này trong giai đoạn sau khi lựa chọn nhà thầu, khi nhà thầu đã được thông báo trúng thầu và ký hợp đồng.

Khoản 6 Điều 98 Luật Xây dựng coi hành vi mua bán thầu là hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động xây dựng Tuy nhiên, Luật Xây dựng và Luật Đấu thầu hiện hành đều không quy định thế nào là hành vi mua bán thầu Khoản 14 Điều 12 Luật Đấu thầu quy định hành vi chuyển nhượng cho nhà thầu khác thực hiện hợp đồng sau khi trúng thầu là hành vi bị cấm trong đấu thầu nhưng hiện nay Luật Đấu thầu không quy định một nhà thầu chính được giao lại cho nhà thầu phụ (các nhà thầu phụ) tối đa là bao nhiêu phần trăm (%)

Theo Khoản 12 Điều 4 Luật Đấu thầu và Khoản 2 Điều 53 Nghị định 111/2006/NĐ-CP, nếu nhà thầu chuyển nhượng từ 10% trở lên giá trị hợp đồng cho nhà thầu khác mà không có lý do chính đáng, sẽ bị cấm tham gia đấu thầu từ 1 đến 3 năm Điều này cho thấy việc bán thầu dưới 10% vẫn được coi là hợp pháp, tạo ra kẽ hở pháp lý cho nhiều nhà thầu lợi dụng để “mua bán thầu một cách hợp pháp”, dẫn đến tình trạng các dự án bị “rút ruột” Cụ thể, trong dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 3 qua thị xã Bắc Kạn và tuyến tránh thị xã Cao Bằng, Thanh tra Chính phủ đã phát hiện một số nhà thầu ký hợp đồng với thầu phụ không có tên trong danh sách và chưa được chủ đầu tư chấp thuận, thu tiền theo tỷ lệ phần trăm trên giá trị khối lượng được giao, tổng số lên tới 2,3 tỷ đồng, cho thấy hành vi bán thầu để hưởng hoa hồng.

Trong buổi thảo luận về Dự thảo Luật Đấu thầu, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, Nguyễn Ngọc Trân, đã bày tỏ lo ngại về việc các dự án được bán cho nhà thầu phụ nhằm hưởng chênh lệch, đồng thời kêu gọi cần có quy định chặt chẽ hơn về thầu phụ Tuy nhiên, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết một cách thỏa đáng trong Luật Đấu thầu chính thức Thực tế cho thấy, khi ký hợp đồng thầu phụ, nhà thầu phụ thường phải trích lại từ 10% đến 20% giá trị công việc cho nhà thầu chính dưới dạng “chi phí quản lý, giám sát” Một ví dụ điển hình là hợp đồng thầu phụ số 17/2007/HĐXL-VNECO6-KTKH, ký giữa Công ty cổ phần xây dựng VNECO 6 và doanh nghiệp tư nhân Văn Khải, trong đó quy định rằng doanh nghiệp tư nhân Tuấn Khải phải trích một phần chi phí cho công tác quản lý và giám sát trong quá trình thi công.

Theo thông tin từ báo Tuổi trẻ, trong một vụ việc liên quan đến việc nhà thầu chính thực hiện hành vi bán thầu, Bên A (VNECO 6) đã yêu cầu Bên B trừ 10% trên giá trị thực hiện vào từng đợt thanh toán Điều này cho thấy nhà thầu chính đang kiếm lợi từ chênh lệch giá, trong khi nhà thầu phụ cũng cần phải có lợi nhuận Một ví dụ điển hình về sự nhũng nhiễu giữa các nhà thầu là vụ bắt giữ Nguyễn Đình Thản, Giám đốc Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Vinaconex 10, khi ông này nhận hối lộ 200 triệu đồng từ nhà thầu phụ Nguyễn Đại Lợi, Giám đốc Công ty tư vấn xây dựng Trường Sơn Vụ án này đã được Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành điều tra sau khi kết thúc.

Bộ Công an đã phát hiện Nguyễn Đình Thản nhận hối lộ gần 1,3 tỷ đồng từ nhiều cá nhân và đơn vị khác để tạo điều kiện cho họ tham gia thi công các gói thầu của Vinaconex 10 Cụ thể, Thản đã nhận 100 triệu đồng từ Phạm Văn Hiền, giám đốc công ty xây dựng giao thông thủy lợi Đông Tân (Thanh Hóa), và ký kết một số hợp đồng thầu phụ với Nguyễn Hữu Minh, giám đốc Công ty Minh Hà (Quảng Bình), từ đó nhận được “lại quả”.

Trong lĩnh vực xây dựng, các nhà thầu được phân loại theo tính chất của gói thầu, bao gồm: nhà thầu tư vấn, nhà thầu cung cấp, nhà thầu xây dựng và nhà thầu EPC.

Nhà thầu tư vấn là những đơn vị tham gia vào quá trình đấu thầu, cung cấp sản phẩm và dịch vụ với yêu cầu cao về kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn.

Dịch vụ tư vấn chuẩn bị dự án bao gồm việc lập và đánh giá các báo cáo quy hoạch, tổng sơ đồ phát triển, thiết kế kiến trúc, cũng như các báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi.

Dịch vụ tư vấn thực hiện dự án bao gồm các hoạt động như khảo sát, lập thiết kế, tổng dự toán và dự toán, lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, cũng như giám sát thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị.

- Dịch vụ tư vấn điều hành quản lý dự án, thu xếp tài chính, đào tạo, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ tư vấn khác

Các trường hợp lựa chọn nhà thầu trong họat động xây dựng

Lựa chọn nhà thầu tư vấn xây dựng

Tư vấn đầu tư và xây dựng là hoạt động quan trọng, cung cấp kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn cho bên mời thầu trong quá trình chuẩn bị và thực hiện đầu tư Tuy nhiên, theo Luật Đấu thầu và Nghị định 111/2006/NĐ-CP, chỉ có quy định về thủ tục lựa chọn nhà thầu tư vấn là tổ chức, mà chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc lựa chọn nhà thầu tư vấn là cá nhân Điều này dẫn đến tình trạng lúng túng cho bên mời thầu khi muốn mời cá nhân làm nhà thầu tư vấn.

Nhà thầu tư vấn cần có trình độ chuyên môn phù hợp với yêu cầu hồ sơ mời thầu và chuyên gia tư vấn phải sở hữu chứng chỉ, bằng cấp xác nhận năng lực Họ có trách nhiệm đảm bảo tính chính xác, khách quan trong công tác chuyên môn và hoàn thành công việc theo hợp đồng đã ký với bên mời thầu.

Vào ngày 26/9/2007, sự cố sập cầu Cần Thơ đã khiến các cơ quan chức năng tiếp tục điều tra và xác định trách nhiệm của các đơn vị liên quan Đến ngày 24/10/2007, Ban Quản lý dự án Mỹ Thuận, chủ đầu tư được Bộ Giao thông vận tải giao nhiệm vụ, đã bị xác định là đơn vị chịu trách nhiệm chính Ban này đã để cho nhà thầu thi công và tư vấn giám sát thực hiện sai quy trình, đặc biệt là việc tư vấn giám sát không tham gia vào việc giám sát thi công hệ đỡ ván khuôn của gói thầu số 2 Họ cũng không kiểm tra hoặc xác nhận việc thử tải khối bê tông và trụ tạm, thể hiện sự thiếu trách nhiệm nghiêm trọng của đơn vị tư vấn giám sát và các cán bộ liên quan.

Theo Điều 11 Luật Đấu thầu, nhà thầu tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi không được tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn thiết kế kỹ thuật của dự án, và nhà thầu đã tham gia thiết kế kỹ thuật cũng không được tham gia các bước tiếp theo, trừ gói thầu EPC Quy định này phải được thực hiện trong vòng 3 năm theo lộ trình của Chính phủ kể từ khi Luật Đấu thầu có hiệu lực Ngày 29/9/2006, Chính phủ ban hành Nghị định 111/2006/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Luật Đấu thầu, trong đó Điều 3 quy định Thủ tướng Chính phủ sẽ xác định lộ trình phù hợp để đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu Do đó, để làm rõ Điều 11, vẫn cần chờ hướng dẫn cụ thể và quy định này chưa thể áp dụng ngay.

“nhà thầu lập báo cáo nghiên cứu khả thi được tham gia đấu thấu lập thiết kế kỹ thuật cho đến trước ngày 01 tháng 4 năm 2009”

Theo Điều 54 Luật Xây dựng, quy trình thiết kế công trình bao gồm ba bước: thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật và thiết kế bản vẽ thi công Tùy thuộc vào tính chất và quy mô của công trình, thiết kế có thể được thực hiện theo một, hai hoặc ba bước Thiết kế một bước áp dụng cho các công trình chỉ cần lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật Thiết kế hai bước bao gồm thiết kế cơ sở và bản vẽ thi công, được áp dụng cho các công trình cần lập dự án đầu tư Thiết kế ba bước, bao gồm cả ba giai đoạn nêu trên, dành cho các công trình lớn và phức tạp cần lập dự án đầu tư xây dựng.

Theo Báo Pháp luật TP.HCM ngày 24/10/2007 (trang 6), quy định hiện hành yêu cầu thiết kế phải có hai bước trở lên, và các bước thiết kế tiếp theo chỉ được triển khai dựa trên bước thiết kế trước đó đã được phê duyệt.

Hầu hết các đơn vị tư vấn lập dự án đầu tư cũng là tác giả của thiết kế cơ sở, do đó các bước thiết kế tiếp theo cần tuân thủ thiết kế đã được phê duyệt Chất lượng quy hoạch tổng mặt bằng và sự sáng tạo trong thiết kế kiến trúc là yếu tố quyết định cho thành công của dự án Nếu không có quy định phù hợp, các đơn vị tư vấn sẽ không mặn mà đầu tư công sức vào việc tạo ra thiết kế cơ sở chất lượng, dẫn đến chất lượng thiết kế cơ sở và các bước thiết kế tiếp theo sẽ khó đạt yêu cầu cao.

Lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng

Quá trình lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng nhằm tìm kiếm nhà thầu thực hiện công trình theo thiết kế và dự toán Trong lĩnh vực này, các nhà thầu cạnh tranh về giải pháp thi công để đáp ứng yêu cầu chất lượng với chi phí thấp nhất Giải pháp của nhà thầu thường dựa trên kinh nghiệm, công nghệ mới và biện pháp phù hợp với điều kiện thực tế Trong đấu thầu xây lắp, giải pháp thực hiện là yếu tố quan trọng để giành chiến thắng, nhưng trong một số trường hợp không yêu cầu kỹ thuật cao, đơn giá cạnh tranh cũng có thể là yếu tố quyết định giúp nhà thầu thắng thầu.

Việc lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng có năng lực phù hợp là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và tiến độ dự án Nhiều dự án tại Việt Nam hiện nay bị chậm tiến độ do bên mời thầu chọn nhầm nhà thầu, điển hình là dự án vệ sinh môi trường lưu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè tại TP.HCM Dự án này gồm ba gói thầu quan trọng, trong đó gói số 7 được xem là “xương sống” và đang thu hút sự quan tâm lớn từ dư luận Gói số 7 được thực hiện bởi liên danh nhà thầu Tianjin-CHEC.

Dự án khởi công vào ngày 26/11/2003 và dự kiến hoàn thành vào tháng 11/2006 Tuy nhiên, đến tháng 01/2007, theo thông tin từ Ban quản lý dự án thuộc Sở Giao thông công chánh TP.HCM, nhà thầu mới chỉ hoàn thành 35% khối lượng công việc Ông Phan Châu Thuận, Phó Giám đốc Ban quản lý dự án, đã nêu rõ tình hình này.

Theo Báo Thanh Niên ngày 12/01/2007, sự chậm trễ trong gói thầu này một phần do nhà thầu thiếu nhân lực và thiết bị, cũng như việc bỏ thầu giá thấp (thấp hơn 20% so với dự toán) Năng lực tài chính của nhà thầu đã không được đánh giá đúng trong quá trình lựa chọn Gói thầu được đấu thầu theo hình thức quốc tế có sơ tuyển, trong đó hồ sơ dự tuyển của nhà thầu Tianjin-CHEC 3 được xem là đủ năng lực tài chính, nhưng thực tế lại dựa trên số liệu của nhà thầu “mẹ” ở Trung Quốc Tại nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là những dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, chủ đầu tư thường cho rằng chậm trễ chủ yếu do năng lực tài chính yếu kém của các nhà thầu.

Lựa chọn tổng thầu và nhà thầu EPC trong hoạt động xây dựng

Tùy thuộc vào quy mô, tính chất, loại hình và cấp độ của dự án đầu tư xây dựng, cũng như các điều kiện cụ thể liên quan, người quyết định đầu tư hoặc chủ đầu tư sẽ lựa chọn hình thức tổng thầu phù hợp cho hoạt động xây dựng.

Các hình thức tổng thầu trong xây dựng phản ánh sự đặc thù của ngành, khác biệt với các lĩnh vực khác Tiêu chí đầu tiên để đánh giá tổng thầu là phạm vi công việc và năng lực thực hiện Khi tham gia đấu thầu, tổng thầu, dù là doanh nghiệp độc lập hay liên danh, cần chứng minh năng lực, kinh nghiệm và đáp ứng các yêu cầu của gói thầu.

Nhà thầu EPC là đơn vị thực hiện toàn bộ công việc từ thiết kế, cung ứng vật tư thiết bị đến thi công xây dựng công trình Hợp đồng này thường được áp dụng cho các dự án yêu cầu cao về thời gian hoàn thành và không đủ điều kiện giám sát chặt chẽ Tất cả trách nhiệm về thiết kế, mua sắm và thi công thuộc về nhà thầu Tuy nhiên, theo FIDIC, hợp đồng EPC không phù hợp khi thiếu thông tin hoặc thời gian cho nhà thầu nghiên cứu và xác định rủi ro, nhưng vấn đề này thường bị xem nhẹ trong thực tế.

Trong thời gian qua, các dự án thầu EPC tại Việt Nam, như dự án thủy điện Sê San ở Tuyên Quang, đã gặp phải nhiều vấn đề, bao gồm chậm phê duyệt tổng dự toán và thay đổi tỉ lệ khấu hao dây chuyền thiết bị thi công Việc chủ đầu tư chỉ định nhà thầu cung cấp thiết bị đã khiến tổng thầu EPC mất đi tính chủ động trong việc đảm bảo sự đồng bộ của các chi tiết thiết bị Hệ quả là tiến độ bị chậm trễ do cung cấp không kịp thời, dẫn đến hiệu quả không đạt được như mong đợi và biến hợp đồng tổng thầu EPC thành một hợp đồng xây lắp thông thường.

Trong thời gian gần đây, nhiều dự án đầu tư xây dựng đã được triển khai theo hình thức hợp đồng EPC, giúp đưa công trình vào vận hành một cách đồng bộ và hoàn chỉnh Hợp đồng EPC đã được áp dụng cho các dự án lớn như Nhiệt điện Uông Bí, Nhiệt điện Phú Mỹ I, II và Thủy điện Nà Hang, cũng như cho một số gói thầu tại Nhà máy lọc dầu Dung Quất và Nhiệt điện Phả Lại II Đây là một phương thức quản lý đầu tư xây dựng mới, cần được nghiên cứu sâu hơn để đề xuất các cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn Tuy nhiên, việc áp dụng hợp đồng EPC còn nhiều vấn đề cần làm rõ, như lý do áp dụng hình thức này, các điều kiện cần thiết và sự khác biệt so với các hợp đồng xây dựng thông thường.

Hợp đồng EPC là thỏa thuận bằng văn bản giữa chủ đầu tư và nhà thầu, nhằm thực hiện trọn gói các công việc của dự án, bao gồm khảo sát, thiết kế, mua sắm vật tư, thiết bị, dịch vụ kỹ thuật, thi công xây dựng và lắp đặt, đảm bảo công trình được đưa vào vận hành khai thác một cách đồng bộ.

Khi thực hiện hợp đồng EPC, nhiều công việc trước đây thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư như thiết kế, mua sắm vật tư, thiết bị và quản lý dự án sẽ được chuyển giao cho nhà thầu EPC Thực tế cho thấy, để tổ chức và hoàn thành một dự án hoặc gói thầu, chủ đầu tư cần thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, bao gồm chuẩn bị và trình phê duyệt dự án, thuê tư vấn khảo sát thiết kế, đền bù giải phóng mặt bằng, cũng như tổ chức lựa chọn nhà thầu và ký kết hợp đồng.

Việc áp dụng hình thức tổng thầu EPC và hợp đồng EPC đang gặp phải nhiều ý kiến trái chiều Chủ đầu tư thường thiếu kinh nghiệm, năng lực chuyên môn và nhân sự để quản lý dự án hiệu quả Dù có thể tổ chức bộ máy quản lý chuyên nghiệp, việc quản lý trực tiếp một vài dự án trong thời gian ngắn vẫn không mang lại hiệu quả cao Do đó, cần xem xét lại cách thức tổ chức và quản lý dự án để nâng cao hiệu quả thực hiện.

Hiện nay, quản lý dự án theo cách nghiệp dư dẫn đến tình trạng lãng phí, thất thoát vốn và quản lý chất lượng xây dựng kém Điều này hạn chế sự chủ động và sáng tạo của các bên tham gia, làm giảm hiệu quả thực hiện dự án Việc áp dụng hợp đồng EPC có thể khắc phục một phần các vấn đề này, mang lại lợi ích cho cả chủ đầu tư và nhà thầu Chủ đầu tư có thể tận dụng kỹ thuật và kinh nghiệm của nhà thầu, giảm thiểu nhân lực và chi phí quản lý Hơn nữa, việc cung cấp tài chính cho dự án trở nên thuận lợi hơn khi thanh toán theo giai đoạn thực hiện Nhà thầu cũng chia sẻ rủi ro trong thiết kế và xây dựng, đồng thời có thể rút ngắn thời gian thực hiện dự án nhờ vào sự chủ động trong các công đoạn.

Hợp đồng EPC mang lại cho nhà thầu sự chủ động và linh hoạt trong thiết kế và thi công, đồng thời cải thiện sự hợp tác với đơn vị tư vấn giám sát của chủ đầu tư Việc kết hợp các khâu công việc trong quá trình thực hiện giúp giảm chi phí dự án/gói thầu Để áp dụng hình thức hợp đồng EPC, các dự án/gói thầu cần đáp ứng một số điều kiện nhất định.

Phạm vi công việc trong hợp đồng EPC cần được xác định chi tiết để rõ ràng trong việc phân chia trách nhiệm giữa chủ đầu tư và nhà thầu Việc này đặc biệt quan trọng trong các giai đoạn triển khai dự án, nơi một số công việc như chuẩn bị công trường và mặt bằng xây dựng có thể không được phân định rõ ràng Do đó, cần có sự bàn bạc và thống nhất linh hoạt giữa chủ đầu tư và nhà thầu để xác định công việc nào nên được đưa vào hoặc loại trừ khỏi phạm vi hợp đồng EPC một cách hợp lý.

Để mời thầu hoặc chỉ định thầu EPC, việc chuẩn bị hồ sơ tài liệu cần thiết là rất quan trọng, đặc biệt là việc làm rõ các yêu cầu cụ thể của chủ đầu tư đối với dự án hoặc gói thầu Các yêu cầu này có thể đa dạng, bao gồm công suất khai thác, công năng sử dụng, thời gian thực hiện và yêu cầu về ứng vốn Cần phải định tính và định lượng các yêu cầu này để đưa vào Tài liệu về các yêu cầu của chủ đầu tư, làm cơ sở cho việc lập hồ sơ mời thầu hoặc chỉ định thầu EPC trong giai đoạn tiếp theo.

- Dự án /gói thầu có yêu cầu về chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý vận hành, khai thác từ phía nhà thầu thực hiện

Ngoài các điều kiện nêu trên, việc áp dụng hình thức hợp đồng EPC có thể sẽ không thích hợp đối với một số trường hợp sau đây:

Chủ đầu tư không có đủ thời gian để nhà thầu nghiên cứu chi tiết các yêu cầu, dẫn đến việc nhà thầu khó xác định phạm vi công việc và ước lượng chi phí chính xác.

Chủ đầu tư thường muốn giữ quyền kiểm soát chi tiết trong quá trình thực hiện các dự án hoặc gói thầu Đối với các dự án thông thường, họ cần tổ chức lập và thẩm định thiết kế kỹ thuật thi công để làm cơ sở cho hồ sơ mời thầu và lựa chọn nhà thầu Tuy nhiên, trong hợp đồng EPC, thiết kế kỹ thuật được chuyển giao cho nhà thầu, do đó tài liệu thiết kế dùng để giao thầu EPC chỉ có thể là thiết kế cơ sở đã được thẩm định theo quy định trong dự án đầu tư xây dựng.

Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về lựa chọn nhà thầu

Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng ở nước ta

và tổ chức quốc tế

1.3.1 Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng ở nước ta

Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây, đầu tư được thực hiện dựa trên kế hoạch giao nhận thầu mà không có quy trình đấu thầu để lựa chọn nhà thầu thực hiện.

Từ năm 1989-1990, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, dẫn đến việc tổ chức đấu thầu trở thành yêu cầu cần thiết "Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng" đã khẳng định rằng đấu thầu là yếu tố quan trọng cho các công trình xây dựng cơ bản hiện nay Để cụ thể hóa quy trình đấu thầu trong xây dựng cho các dự án đầu tư, Bộ Xây dựng đã ban hành "Quy chế Đấu thầu trong xây dựng" vào ngày 12/02/1990, quy định nội dung và thể thức đấu thầu áp dụng cho tất cả các công trình từ nguồn vốn ngân sách và ngoài ngân sách Nhà nước của các tổ chức Nhà nước.

Theo quy chế, các công trình trọng điểm quốc gia với quy mô lớn và kỹ thuật phức tạp sẽ được Bộ quản lý xây dựng chuyên ngành lựa chọn tổ chức tổng thầu Tổ chức tổng thầu có thể giao thầu lại hoặc đấu thầu một số hạng mục tùy theo điều kiện cụ thể Việc xét thầu được thực hiện bởi Hội đồng xét thầu, bao gồm đại diện từ các cơ quan chức năng như cơ quan xét duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật, Bộ (Sở) quản lý xây dựng, chủ đầu tư, cơ quan tài chính, cơ quan kế hoạch và Trọng tài kinh tế Hội đồng hoạt động theo nguyên tắc đa số phiếu bầu, với ba tiêu chí chính để xét thầu: giá cả, kỹ thuật và chất lượng, thời gian hoàn thành công trình.

Đấu thầu có hai hình thức chính: đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế, tùy thuộc vào tính chất và yêu cầu của công trình Trước khi tiến hành đấu thầu, bên mời thầu cần đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, phù hợp với nguồn vốn Bộ (Sở) quản lý xây dựng chuyên ngành sẽ xem xét và hướng dẫn để đảm bảo quá trình đấu thầu diễn ra hiệu quả.

Vào ngày 30/3/1994, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ban hành Quy chế đấu thầu xây lắp theo Quyết định số 60-BXD/VKT, thay thế cho quy chế trước đó Quy chế này yêu cầu tất cả các công trình xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước phải tuân thủ Ngoài ra, các công trình có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và những công trình không thuộc sở hữu Nhà nước cũng cần áp dụng quy chế này khi tổ chức đấu thầu xây lắp.

14 Nghị định 385-HĐBT ngày 07/11/1990 của Hội đồng Bộ trưởng

Theo Quyết định 24/BXD-VKT, bên cạnh hình thức đấu thầu rộng rãi và hạn chế, chủ đầu tư có thể chỉ định thầu cho một số công trình đặc biệt như công trình bí mật quốc gia, công trình nghiên cứu, thử nghiệm, công trình khẩn cấp do thiên tai, công trình có giá trị xây lắp dưới 100 triệu VNĐ, và các công trình khác do Thủ tướng Chính phủ chỉ định Việc xét thầu được thực hiện qua Hội đồng xét thầu dựa trên ba tiêu chí chính: kỹ thuật và chất lượng, giá dự thầu, và thời gian hoàn thành công trình.

Các quy định về đấu thầu trong ngành xây dựng đã đặt nền móng cho việc hình thành pháp luật lựa chọn nhà thầu tại Việt Nam, mặc dù còn đơn giản và chỉ mang tính hướng dẫn nội bộ Nhiều ý kiến cho rằng đây là giải pháp tạm thời nhằm giảm thiểu thất thoát trong xây dựng do việc phân bổ công việc theo nguyên tắc chia đều Tuy nhiên, việc ban hành quy chế đấu thầu được xem là bước thí điểm hướng tới quy định hoàn chỉnh hơn Dù vậy, không thể phủ nhận những thành tựu đạt được từ việc áp dụng các quy chế này Nền kinh tế đang biến động, tổng vốn đầu tư xây dựng tăng lên, và các nhà thầu bắt đầu tìm ra lợi thế cho mình Xã hội ngày càng yêu cầu các quy định chặt chẽ, hiệu quả và phù hợp với thông lệ đấu thầu quốc tế.

Ngày 16/7/1996, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quy chế đấu thầu theo Nghị định 43/CP, thay thế các quy định trước đây nhằm thống nhất quản lý hoạt động đấu thầu trên toàn quốc Quy chế này đảm bảo tính đúng đắn, khách quan, công bằng và cạnh tranh trong việc lựa chọn tư vấn, mua sắm vật tư, thiết bị và thi công xây lắp cho các dự án đầu tư Phạm vi điều chỉnh của Quy chế đấu thầu đã được mở rộng, không chỉ giới hạn trong hoạt động xây dựng mà còn áp dụng cho việc lựa chọn nhà thầu cho các dự án đầu tư được phê duyệt theo quy định của Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, bao gồm cả các dự án liên doanh hoặc hợp tác kinh doanh với nước ngoài.

Quy chế được điều chỉnh bởi Nghị định 93/CP ngày 29/4/1997 yêu cầu doanh nghiệp nhà nước có mức góp vốn pháp định từ 30% trở lên Đối với các dự án đầu tư, cần lựa chọn đối tác liên danh, 100% vốn nước ngoài hoặc áp dụng hình thức hợp đồng BOT, BT Các dự án đầu tư khác sẽ được tổ chức đấu thầu theo quyết định của chủ đầu tư.

Quy chế mới trong quản lý đầu tư tại Việt Nam tạo ra hành lang pháp lý cho việc lựa chọn nhà thầu, nâng cao vai trò của chủ đầu tư và tăng cường trách nhiệm của nhà thầu Việc thực hiện đấu thầu không chỉ tạo ra sự công bằng và cạnh tranh giữa các nhà thầu mà còn hạn chế tiêu cực trong quá trình lựa chọn, từ đó giảm chi phí đầu tư và nâng cao hiệu quả dự án Qua đó, chủ đầu tư có cơ hội lựa chọn phương án mua sắm hàng hóa hiệu quả, nhà thầu có kinh nghiệm và năng lực, cùng với các biện pháp thi công tốt, đảm bảo chất lượng công trình.

Các quy định về đấu thầu tại Việt Nam được xây dựng dựa trên các thông lệ quốc tế và thực tiễn quản lý trong nước, giúp Quy chế Đấu thầu nhanh chóng đi vào cuộc sống Tuy nhiên, do đấu thầu là một lĩnh vực mới trong bối cảnh chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nên cần có sự nghiên cứu và điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tế và yêu cầu từ môi trường khách quan.

Ngày 01/9/1999, Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP 17 nhằm cải thiện hiệu quả của các quy định pháp luật Tuy nhiên, những thay đổi này chỉ nâng cấp nội dung của một loại văn bản thông dụng, dẫn đến sự không ổn định khi các nội dung có thể thay đổi chỉ sau vài tháng Điều này tạo ra sự lo lắng cho các chủ thể, yêu cầu không chỉ về quy định phù hợp mà còn về sự ổn định Trước áp lực hội nhập và sự hoàn thiện của cơ chế thị trường, yêu cầu về tính minh bạch và công bằng trong xã hội ngày càng cao Do đó, các quy định pháp luật về đấu thầu, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, cần được điều chỉnh bởi một văn bản có giá trị pháp lý cao hơn.

17 Nghị định này được sửa đổi bởi Nghị định 14/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000, Nghị định 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003

Ngày 26/11/2003, Quốc hội đã thông qua Luật Xây dựng, trong đó quy định 11 Điều về việc lựa chọn nhà thầu xây dựng Việc lựa chọn nhà thầu được thực hiện thông qua các hình thức như đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu và lựa chọn nhà thầu thiết kế kiến trúc công trình (Điều 97) Tuy nhiên, các quy định này chỉ mang tính chất đặc thù, và việc lựa chọn nhà thầu vẫn phải tuân theo pháp luật về đấu thầu Do đó, mối quan hệ giữa các quy định trong Luật Xây dựng và pháp luật về lựa chọn nhà thầu nói chung là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.

Việc nghiên cứu và ban hành Luật Đấu thầu là cần thiết để pháp điển hóa các quy phạm pháp luật đấu thầu, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý dự án và sử dụng nguồn vốn hạn chế của đất nước Dự án Pháp lệnh Đấu thầu đã được Quốc hội khóa X đưa vào chương trình xây dựng luật năm 1999 và tiếp tục được cập nhật hàng năm Đến tháng 6 năm 2005, dự án này đã trải qua 10 lần dự thảo, với dự thảo thứ 10 được Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội Nhờ đáp ứng tốt các yêu cầu trong bối cảnh mới, Luật Đấu thầu đã nhanh chóng hình thành, phù hợp với định hướng của Quốc hội về việc luật hóa các quy định liên quan đến đấu thầu.

Việc ban hành Luật Đấu thầu sẽ thống nhất quy định về chi tiêu và sử dụng vốn Nhà nước, khắc phục khó khăn do sự khác biệt trong các văn bản pháp quy hiện tại Luật này, kế thừa từ Dự thảo Pháp lệnh Đấu thầu và các quy định hiện hành, sẽ nâng cao hiệu quả trong đấu thầu, đồng thời phù hợp với xu hướng pháp điển hóa tại Việt Nam Luật Đấu thầu sẽ trở thành cơ sở pháp lý chủ yếu cho việc chi tiêu và sử dụng vốn Nhà nước, đồng thời cung cấp khung pháp lý cho các đối tượng khác khi cần thiết.

18 Khoản 4 Điều 95 Luật Xây dựng

Kinh nghiệm về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng của một số quốc gia và tổ chức quốc tế

1.3.2.1 Kinh nghiệm về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng của Cộng hòa liên bang Nga Để quản lý hoạt động đấu thầu, Cộng hòa liên bang Nga ban hành quy chế đấu thầu về mua sắm hàng hóa, xây lắp công trình, dịch vụ cho các nhu cầu quốc gia 19 Một trong những kinh nghiệm tổng quan chi phối hoạt động đấu thầu của Cộng hòa liên bang Nga là sự phù hợp cao của quy chế đấu thầu với các quy định đấu thầu quốc tế Điều này là cơ sở để đảm bảo cho các chủ đầu tư và các nhà thầu ở Cộng hòa liên bang Nga không phải tốn nhiều công sức vào việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của các tổ chức quốc tế trước khi tiến hành chúng Rõ ràng đây là một nhân tố quan trọng góp phần thực hiện một trong những yêu cầu của nâng cao chất lượng đấu thầu là tiết kiệm, hiệu quả, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của chủ đầu tư và tạo sự dễ dàng cho quá trình thực hiện

Cơ chế giám sát và xử phạt nghiêm minh trong hoạt động đấu thầu tại Cộng hòa Liên bang Nga giúp hạn chế lạm dụng quyền lực của các quan chức Chính phủ Chính sách xử phạt thích đáng đối với các vi phạm quy chế đấu thầu đã thúc đẩy tính công bằng và bình đẳng, đồng thời giảm thiểu hiện tượng thiếu minh bạch và thiếu vô tư trong công tác xét thầu.

1.3.2.2 Kinh nghiệm về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng của Ngân hàng thế giới (WB)

Ngân hàng Thế giới (WB) là tổ chức quốc tế quản lý khoản vay cho 185 quốc gia, trong đó có Việt Nam Việc sử dụng các khoản vay của WB để thực hiện dự án phải tuân theo quy định mua sắm chung Để quản lý hoạt động mua sắm, WB đã ban hành hai văn bản quy định riêng biệt Những quy định này đã được các nhà lập pháp Việt Nam tham khảo trong quá trình xây dựng pháp luật đấu thầu từ những ngày đầu cho đến nay.

19 Tạp chí Sài Gòn Đầu tư và Xây dựng, số 8/2006

Bài viết "20 Kinh nghiệm của một số nước và tổ chức quốc tế trong việc nâng cao chất lượng đấu thầu xây dựng" của Trần Văn Hùng trên Tạp chí Sài Gòn đầu tư và xây dựng số 8/2006 trình bày những phương pháp hiệu quả từ các quốc gia và tổ chức quốc tế nhằm cải thiện quy trình đấu thầu xây dựng Những kinh nghiệm này bao gồm việc áp dụng công nghệ thông tin, tăng cường minh bạch trong đấu thầu, và nâng cao năng lực cho các bên liên quan Qua đó, bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải tiến chất lượng đấu thầu để đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong các dự án xây dựng.

Hướng dẫn mua sắm bằng vốn vay IBRD và tín dụng IDA từ Ngân hàng Thế giới cung cấp quy trình chi tiết cho việc mua sắm hàng hóa và xây lắp Các bước này bao gồm việc xác định nhu cầu, lập kế hoạch mua sắm, và thực hiện các thủ tục đấu thầu theo quy định Đặc biệt, người mua cần tuân thủ các tiêu chuẩn và hướng dẫn của Ngân hàng Thế giới để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn Việc nắm rõ quy trình này sẽ giúp các dự án đạt được kết quả tốt nhất và tối ưu hóa nguồn lực tài chính.

- Hướng dẫn tuyển chọn và thuê chuyên gia tư vấn do bên vay của Ngân hàng Thế giới thực hiện

Việc Ngân hàng Thế giới ban hành hai văn bản điều chỉnh riêng biệt cho các hoạt động đấu thầu mang lại nhiều bài học quý giá cho Việt Nam Những đặc điểm chính trong quy định đấu thầu của WB có thể được xem là kinh nghiệm tham khảo hữu ích trong quá trình hình thành và hoàn thiện pháp luật về đấu thầu tại các nước thành viên.

Để tạo ra sự cạnh tranh tối đa, Ngân hàng Thế giới (WB) quy định rằng hình thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế (ICB) là chủ yếu Chỉ khi có lý do chính đáng theo hướng dẫn mua sắm của WB, các hình thức lựa chọn nhà thầu khác mới được xem xét Hồ sơ mời thầu cần rõ ràng, chi tiết về địa điểm, hàng hóa, lịch trình thực hiện và yêu cầu kỹ thuật, đồng thời không được đưa ra yêu cầu định hướng Cách đánh giá hồ sơ dự thầu cũng phải được nêu rõ, cho phép các phương án thay thế về thiết kế, nguyên vật liệu, thời hạn hoàn thành và điều kiện thanh toán Để đảm bảo tính công khai, thông báo mời thầu cho các gói thầu lớn phải được đăng tải trên tờ Kinh doanh phát triển của Liên hợp quốc và không được phát hành hồ sơ sớm hơn 8 tuần sau thông báo Thông tin mời thầu cũng cần được công bố trên ít nhất một tờ báo quốc gia của nước vay để tạo điều kiện cho các nhà thầu tiếp cận thông tin.

Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu của Ngân hàng Thế giới (WB) kết hợp tính chặt chẽ và tiên tiến với sự linh hoạt Đặc biệt, trong việc lựa chọn dịch vụ tư vấn, quy định mua sắm của WB cho phép áp dụng những phương pháp đa dạng để đảm bảo tính hiệu quả và minh bạch trong quá trình đánh giá.

Bài viết trình bày 06 phương pháp đánh giá dịch vụ tư vấn, bao gồm đánh giá tổng hợp dựa trên chất lượng và chi phí, trong đó chất lượng chiếm tối thiểu 70% và chi phí tối đa 30% Phương pháp này giúp ngăn chặn tình trạng nhà thầu lợi dụng để ép giá Đánh giá chất lượng được áp dụng cho các dự án phức tạp, yêu cầu nhà tư vấn nộp đề xuất kỹ thuật và có thể yêu cầu đề xuất tài chính sau đó Đối với các công việc đơn giản, ngân sách cố định được sử dụng, nhà tư vấn nộp cả hai loại đề xuất Đánh giá kỹ thuật tương tự phương pháp tổng hợp, nhưng ưu tiên hồ sơ có giá thấp nhất và đánh giá kỹ thuật cao Đối với các công việc đã có chuẩn mực, phương pháp đánh giá chi phí thấp nhất được áp dụng, mời hồ sơ có chi phí thấp nhất và đáp ứng yêu cầu tối thiểu về kỹ thuật vào đàm phán Cuối cùng, đánh giá năng lực được sử dụng cho các công việc có giá trị nhỏ, mời hồ sơ đủ điều kiện trình đề xuất để ký kết hợp đồng.

Phương pháp chọn theo một nguồn duy nhất là một ngoại lệ, áp dụng trong các trường hợp đặc biệt như cần tiếp tục công việc đã thực hiện, yêu cầu tiến độ gấp, khối lượng công việc nhỏ, hoặc khi chỉ có một tổ chức tư vấn đủ kinh nghiệm Đối với mua sắm hàng hóa và xây lắp, WB quy định rõ phương pháp đánh giá cần tuân thủ.

Đánh giá kỹ thuật là bước đầu tiên sau khi kiểm tra tính hợp lệ và đầy đủ của hồ sơ dự thầu, sử dụng tiêu chí “đạt” và “không đạt” được công khai trong hồ sơ mời thầu Tiêu chí này giúp giảm thiểu sự chủ quan của các chuyên gia đánh giá, nhưng đồng thời yêu cầu đơn vị mua sắm phải có hiểu biết sâu sắc để xây dựng hồ sơ mời thầu một cách đầy đủ và chi tiết.

Bước đánh giá tài chính và thương mại nhằm xếp hạng nhà thầu chỉ áp dụng cho những hồ sơ dự thầu đã vượt qua đánh giá kỹ thuật Tiêu chí quan trọng nhất trong bước này là xác định giá đánh giá của các hồ sơ dự thầu Kết quả cuối cùng của quá trình này là giá đánh giá, phản ánh giá trị thực của các đề xuất đã được chấp nhận về mặt kỹ thuật.

Hồ sơ dự thầu có giá thấp nhất sẽ được mời thương thảo hợp đồng Đánh giá chi phí không chỉ dựa vào giá thầu ban đầu mà còn xem xét các yếu tố liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp trong suốt thời gian sử dụng hàng hóa hoặc công trình.

1.3.2.3 Kinh nghiệm về lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng có các quy định mua sắm cho các khoản tài trợ dành cho các quốc gia thành viên, tương tự như Ngân hàng Thế giới (WB) Một số nội dung quan trọng trong quy định mua sắm của ADB cần được chú ý bao gồm: quy trình minh bạch, yêu cầu cạnh tranh và ưu tiên cho các nhà thầu địa phương nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững trong khu vực.

Quy định về đấu thầu của ADB tương tự như của WB, nhưng có một số khác biệt nhỏ Đối với tuyển chọn dịch vụ tư vấn, ADB yêu cầu nhà thầu nộp hồ sơ kỹ thuật hoặc cả hai hồ sơ kỹ thuật và tài chính, tuy nhiên, đánh giá vẫn ưu tiên hồ sơ kỹ thuật trước Chỉ những hồ sơ đạt yêu cầu kỹ thuật và có điểm cao mới được mở hồ sơ tài chính để đàm phán Nếu đàm phán không thành công, hồ sơ tài chính của nhà thầu có điểm kỹ thuật đứng thứ hai sẽ được xem xét Phương pháp này nhằm đảm bảo nhà thầu có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, nhưng cũng tạo ra áp lực cho nhà thầu có đề xuất kỹ thuật tốt trong quá trình đàm phán giá.

Các hình thức lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng

Phương thức đấu thầu trong hoạt động xây dựng

Trình tự thực hiện đấu thầu trong hoạt động xây dựng

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LỰA CHỌN NHÀ THẦU TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:25

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN