1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng

58 25 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 58
Dung lượng 569,34 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TCTD VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA TCTD (9)
    • 1.1. Khái niệm và phân loại TCTD (9)
      • 1.1.1. Khái niệm TCTD (9)
      • 1.1.2. Phân loại TCTD (11)
    • 1.2. Vai trò của các TCTD đối với nền kinh tế (12)
    • 1.3. Khái quát về các hoạt động huy động vốn của TCTD (14)
      • 1.3.1. Nhận tiền gửi (14)
      • 1.3.2. Phát hành giấy tờ có giá (15)
      • 1.3.3. Vay vốn giữa các TCTD (17)
      • 1.3.4. Vay vốn của NHNN (17)
    • 2. Huy động vốn bằng nhận tiền gửi (18)
      • 2.1. Khái niệm, ý nghĩa của huy động vốn bằng nhận tiền gửi (18)
        • 2.1.1. Khái niệm huy động vốn bằng nhận tiền gửi (18)
        • 2.1.2. Ý nghĩa của hoạt động nhận tiền gửi (19)
      • 2.2. Khái niệm và phân loại tiền gửi (20)
        • 2.2.1. Khái niệm tiền gửi (20)
        • 2.2.2. Phân loại tiền gửi (20)
          • 2.2.2.1. Tiền gửi không kỳ hạn (21)
          • 2.2.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn (23)
    • 1. Điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD (27)
      • 1.1. Sự cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD (27)
        • 1.1.1. Xuất phát từ tầm quan trọng của pháp luật đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế (27)
        • 1.1.2. Xuất phát từ vai trò của hoạt động nhận tiền gửi của TCTD (27)
        • 1.1.3. Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người gửi tiền (28)
      • 1.2. Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động nhận tiền gửi của các TCTD (28)
        • 1.2.1. Điều kiện tham gia vào quan hệ nhận tiền gửi (28)
          • 1.2.1.1. Các điều kiện đối với TCTD khi tham gia vào quan hệ nhận tiền gửi (28)
          • 1.2.1.2. Điều kiện đối với khách hàng là người gửi tiền (29)
        • 1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên (31)
          • 1.2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của TCTD trong quan hệ nhận tiền gửi (33)
          • 1.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng là người gửi tiền (42)
    • 2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các TCTD (43)
      • 2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD (43)
        • 2.1.1. Đánh giá về hoạt động nhận tiền gửi của các TCTD (43)
        • 2.1.2. Một số vướng mắc trong quá trình huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD (45)
          • 2.1.2.1. Những vướng mắc từ phía khách hàng gửi tiền (45)
          • 2.1.2.2. Những vướng mắc từ phía TCTD (45)
          • 2.1.2.3. Những vướng mắc từ điều kiện kinh tế (46)
          • 2.1.2.4. Những vướng mắc từ các quy định của pháp luật (47)
      • 2.2. Một số giải pháp nâng cao khả năng nhận tiền gửi của các TCTD và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi (49)
        • 2.2.1. Một số giải pháp nâng cao khả năng nhận tiền gửi của các TCTD (49)
        • 2.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các TCTD (51)
          • 2.2.2.1. Các quy định về BHTG (51)
          • 2.2.2.2. Về các tỷ lệ bảo đảm an toàn (52)
          • 2.2.2.3. Đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong các quy định của pháp luật (53)
  • KẾT LUẬN (55)

Nội dung

KHÁI QUÁT VỀ TCTD VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA TCTD

Khái niệm và phân loại TCTD

Khi nền kinh tế phát triển, một bộ phận dân cư có của cải dư thừa và cần tìm nơi an toàn để gửi tài sản Ban đầu, những nơi nhận tiền gửi chủ yếu là tiệm vàng, nhà thờ và các thương nhân giàu có, nơi luôn có lượng lớn tiền và vàng nhàn rỗi Đồng thời, nhu cầu vay mượn trong xã hội để chi tiêu và đầu tư cũng gia tăng Nhận thấy điều này, những người giữ hộ tài sản đã quyết định sử dụng một phần tiền nhàn rỗi để cho vay kiếm lời, thay vì chỉ thu phí giữ hộ Điều này đã dẫn đến sự ra đời của các tổ chức tín dụng, đóng vai trò điều hòa nguồn vốn từ những nơi tạm thời thừa sang những nơi tạm thời thiếu.

Khi nền kinh tế thị trường phát triển, vai trò điều hòa nguồn vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng quan trọng và khó kiểm soát hơn Do đó, pháp luật của các quốc gia đã thiết lập những quy định cụ thể để quản lý việc thành lập và hoạt động của các tổ chức tài chính này.

Tại Việt Nam, TCTD được định nghĩa rõ ràng trong Khoản 1 Điều 20 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD năm 1997.

“TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật các TCTD và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng”

Các tổ chức tín dụng (TCTD) có đặc trưng cơ bản là thực hiện hoạt động ngân hàng, bao gồm kinh doanh tiền tệ và cung cấp dịch vụ ngân hàng Hoạt động này thường xuyên diễn ra thông qua việc nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, và cung ứng các dịch vụ thanh toán.

Dựa trên khái niệm đã nêu, có một số điểm vẫn chưa chính xác và không còn phù hợp với thực tế hiện nay Một số ví dụ có thể được liệt kê như sau:

1 Khoản 7 Điều 20 Luật các TCTD 2003

Theo Điều luật, tổ chức tín dụng (TCTD) được định nghĩa là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, bao gồm cả "kinh doanh tiền tệ" và "dịch vụ ngân hàng" Liên từ "và" trong định nghĩa này chỉ ra rằng TCTD phải thực hiện đồng thời cả hai nghiệp vụ Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng về việc một tổ chức có thể được coi là TCTD nếu thiếu một trong hai hoạt động này theo Luật các TCTD hiện hành.

Không phải tất cả các tổ chức tín dụng (TCTD) đều có khả năng thực hiện đồng thời cả hai nghiệp vụ tài chính Sự lựa chọn nội dung kinh doanh của mỗi TCTD phụ thuộc vào định hướng, chiến lược kinh doanh, năng lực tài chính và đội ngũ nhân lực của họ.

Khái niệm "hoạt động ngân hàng" theo luật hiện hành được định nghĩa là "hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, bao gồm nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán." Tuy nhiên, định nghĩa này quá hẹp so với thực tế hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) hiện nay, dẫn đến việc kìm hãm tính đa năng trong hoạt động của họ.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện hoạt động vay vốn qua nhiều phương thức khác nhau, không chỉ đơn thuần là nhận tiền gửi Các hình thức vay này bao gồm phát hành giấy tờ có giá, vay từ các TCTD khác, và vay từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

Dự thảo Luật các TCTD ngày 15/4/2009 đã được sửa đổi bổ sung nhằm khắc phục những bất cập hiện tại, đồng thời đưa ra khái niệm rõ ràng về tổ chức tín dụng (TCTD).

“TCTD là doanh nghiệp có hoạt động chủ yếu và thường xuyên là thực hiện một, một số hoạt động ngân hàng” 5

Để một doanh nghiệp được công nhận là Tổ chức tín dụng (TCTD), điều kiện tiên quyết là doanh nghiệp phải thực hiện chủ yếu và thường xuyên một hoặc một số hoạt động ngân hàng, mà không cần thiết phải thực hiện tất cả các nghiệp vụ ngân hàng cùng một lúc Để làm rõ khái niệm TCTD và giải thích nội hàm của "hoạt động ngân hàng", Dự thảo đã đưa ra các quy định cụ thể.

Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một trong các nghiệp vụ sau đây dưới mọi hình thức:

Cung cấp dịch vụ thanh toán 6

Nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng (TCTD), bao gồm nhiều hình thức như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá và các hình thức nhận tiền gửi khác Tất cả các hình thức này đều tuân theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ tiền gốc cho người gửi tiền.

Khi Dự thảo được thông qua một số hạn chế của Luật các TCTD về khái niệm

“TCTD” và “hoạt động ngân hàng” sẽ được điều chỉnh một cách chính xác, phù hợp hơn

Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau sẽ có những cách phân loại khác nhau

Dựa vào phạm vi hoạt động, TCTD được chia thành hai loại: TCTD là ngân hàng và TCTD phi ngân hàng

“ Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động có liên quan” 8

Tùy thuộc vào mục tiêu hoạt động khác nhau mà ngân hàng lại được chia thành các nhóm khác nhau, bao gồm:

NHTM: lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động của các ngân hàng thuộc nhóm này

Ví dụ: NHTMCP Á Châu, NHTMCP Đông Á, …

NH đầu tư phát triển tập trung vào việc thực hiện các dự án đầu tư phát triển, với mục tiêu chính là thúc đẩy các dự án trung và dài hạn Nhóm ngân hàng này thường nhắm đến các cơ hội đầu tư bền vững để đảm bảo sự phát triển kinh tế lâu dài.

NH chính sách xã - hội: thành lập để thực hiện các chính sách của Nhà nước

Ví dụ: NH chính sách xã hội, NH phát triển nhà Đồng Bằng sông Cửu Long…

Ngân hàng tiết kiệm (NH tiết kiệm) tại Việt Nam hướng tới việc cung cấp các khoản tiền nhỏ phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân Mặc dù có một số tổ chức tín dụng (TCTD) quy mô nhỏ có chức năng tương tự, nhưng Việt Nam vẫn chưa phát triển NH tiết kiệm đúng nghĩa Hiện tại, các ngân hàng thương mại (NHTM) đang đảm nhận các hoạt động của NH tiết kiệm.

Qũy tín dụng nhân dân: nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên

8 Khoản 2 Điều 20 Luật các TCTD 2003

TCTD phi ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng thực hiện một số hoạt động ngân hàng như kinh doanh thường xuyên, nhưng không được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn và không cung cấp dịch vụ thanh toán.

TCTD phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác

Vai trò của các TCTD đối với nền kinh tế

Trong nền kinh tế thị trường, tổ chức tín dụng không chỉ là kênh huy động vốn mà còn là nguồn cung ứng vốn thiết yếu cho nền kinh tế Được coi là những chủ thể quan trọng, tổ chức tín dụng đóng góp vào sự phát triển và ổn định của nền kinh tế thông qua các vai trò cơ bản của mình.

Thứ nhất, TCTD là chủ thể trung gian điều hòa nguồn vốn từ nơi tạm thời có nguồn vốn nhàn rỗi đến nơi cần vốn

Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã dẫn đến nhu cầu vốn ngày càng tăng cho đầu tư sản xuất kinh doanh Tuy nhiên, khả năng tài chính của các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, khiến họ không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu này.

9 Khoản 2 Điều 30 Luật các TCTD

7 hoạt động Để mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài nguồn vốn tự có các chủ thể luôn có nhu cầu vay vốn

Sự phát triển kinh tế đã cải thiện thu nhập của người dân, dẫn đến việc tích lũy của cải ngày càng nhiều Điều này tạo ra một nguồn vốn nhàn rỗi lớn, khiến những người sở hữu vốn dư thừa mong muốn bảo toàn tài sản và tìm kiếm cơ hội tăng thu nhập.

TCTD đóng vai trò trung gian quan trọng trong việc huy động và tập trung nguồn vốn thặng dư nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua hình thức vay mượn Chức năng này giúp tái phân phối vốn cho các cá nhân và tổ chức có nhu cầu phát triển kinh tế Nhờ đó, TCTD trở thành mắt xích thiết yếu trong quá trình lưu thông vốn, đáp ứng nhu cầu của cả những người cần vốn và những người có nguồn vốn chưa sử dụng.

Thứ hai, TCTD là chủ thể góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán

Vai trò của các TCTD đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán được thể hiện ở những khía cạnh sau:

Trong quá trình hoạt động, các tổ chức tín dụng (TCTD) có quyền phát hành cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn, đặc biệt là đối với các TCTD được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần Việc này không chỉ giúp TCTD tìm kiếm nguồn vốn cho hoạt động của mình mà còn đóng góp vào việc tạo ra nguồn hàng quan trọng cho thị trường chứng khoán sơ cấp.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán sơ cấp thông qua các nghiệp vụ tư vấn phát hành, đại lý và bảo lãnh phát hành.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia vào thị trường chứng khoán thứ cấp bằng cách thành lập các công ty chứng khoán độc lập, thực hiện các hoạt động như môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư chứng khoán.

Tại Việt Nam và nhiều quốc gia khác, chứng khoán do ngành ngân hàng phát hành là một trong những loại chứng khoán phổ biến, có tác động lớn đến sự phát triển hoặc suy giảm của thị trường Sự thành lập các công ty trực thuộc nhằm thực hiện các hoạt động này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao dịch và ổn định thị trường chứng khoán.

10 GS.Võ Đình Hảo, Chủ biên, (H.1993), Các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường, Viện kinh tế tài chính, Bộ tài chính, trang 115

8 trong lĩnh vực chứng khoán cũng được nhiều TCTD chú trọng vì đây được xem là một trong những lĩnh vực kinh doanh “siêu lợi nhuận”

Thứ ba, hoạt động của các TCTD góp phần vào việc thực hiện các chính sách tiền tệ của Nhà nước Cụ thể:

Khi thực hiện chính sách kích cầu để thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ tăng cường "bơm tiền" vào lưu thông bằng cách nới lỏng điều kiện cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại (NHTM) Các NHTM sau đó sẽ mở rộng cho vay đối với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế Đồng thời, NHNN có thể giảm mức dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng Ngược lại, để hạn chế lượng tiền trong lưu thông và giảm lạm phát, NHNN sẽ thực hiện chính sách tiền tệ "thắt chặt" bằng cách yêu cầu các tổ chức tín dụng tăng mức dự trữ bắt buộc hoặc mua trái phiếu bắt buộc.

Ngoài các vai trò chính, các tổ chức tín dụng (TCTD) còn đóng góp quan trọng vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế bằng cách mở rộng đầu tư trong và ngoài nước, hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu thông qua các dịch vụ như bao thanh toán và thư tín dụng Họ cũng cung cấp các dịch vụ tài chính và ngân hàng thiết yếu cho nền kinh tế.

Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì vai trò của các TCTD cũng sẽ ngày càng được nâng cao.

Khái quát về các hoạt động huy động vốn của TCTD

Hoạt động ngân hàng, đặc biệt là việc nhận tiền gửi, là một trong những đặc trưng quan trọng của các tổ chức tín dụng (TCTD) Để hiểu rõ về quy trình nhận tiền gửi, trước tiên, chúng ta cần nắm vững khái niệm "tiền gửi".

Tiền gửi là khoản tiền mà khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng (TCTD) dưới nhiều hình thức như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm Tùy thuộc vào loại hình, tiền gửi có thể được hưởng lãi hoặc không, và sẽ được hoàn trả cho người gửi khi có yêu cầu.

Nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn chủ yếu của các tổ chức tín dụng (TCTD), do đó, cần có quy định pháp luật vững chắc để hỗ trợ hoạt động này Hiện tại, luật các TCTD chưa định nghĩa rõ ràng về hình thức huy động vốn này, điều này được xem là một thiếu sót Dự thảo Luật các TCTD đã bổ sung khái niệm này nhằm khắc phục vấn đề trên.

Nhận tiền gửi là hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD) khi tiếp nhận tiền từ cá nhân và tổ chức, bao gồm các hình thức như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và phát hành giấy tờ có giá.

11 Khoản 9 Điều 20 Luật các TCTD 2003

9 các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc cho người gửi tiền” 12

Về phạm vi nhận tiền gửi: Các loại hình TCTD khác nhau sẽ thực hiện nhận tiền gửi với phạm vi khác nhau Cụ thể:

Ngân hàng nhận tiền gửi từ tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác thông qua các hình thức như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.

“TCTD phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức, cá nhân theo quy định của NHNN” 14

Phạm vi nhận tiền gửi của TCTD phi ngân hàng bị hạn chế, không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn dưới một năm Quy định này nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động của TCTD phi ngân hàng và hệ thống TCTD nói chung Các TCTD phi ngân hàng chủ yếu cấp tín dụng trung và dài hạn, do đó, việc cho phép nhận tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn dưới một năm sẽ gây khó khăn trong việc đảm bảo khả năng thanh khoản, ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng.

Theo Dự thảo luật các TCTD, quyền huy động tiền gửi của các tổ chức tín dụng (TCTD) đã có sự thay đổi đáng kể Cụ thể, các TCTD phi ngân hàng như công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác sẽ không được phép nhận tiền gửi từ cá nhân, bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn trên một năm Thay vào đó, họ chỉ được phép nhận tiền gửi từ các tổ chức, bao gồm cả tiền gửi thanh toán.

Nhận tiền gửi là phương thức huy động vốn truyền thống, đóng vai trò quan trọng trong lịch sử hình thành của ngân hàng Hình thức này thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng.

Nhận tiền gửi cũng là quyền riêng có của TCTD xuất phát từ đặc thù về đối tượng kinh doanh, vai trò của TCTD đối với nền kinh tế

1.3.2 Phát hành giấy tờ có giá

Nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) là từ việc huy động vốn Ngoài việc nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá cũng là một phương thức quan trọng giúp TCTD thu hút nguồn vốn lớn.

Theo Khoản 1 Điều 7 của Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước, được ban hành kèm theo Quyết định 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008, giấy tờ có giá được định nghĩa là chứng nhận do tổ chức tín dụng phát hành nhằm mục đích huy động vốn.

13 Khoản 1 Điều 45 Luật các TCTD

14 Khoản 2 Điều 45 Luật các TCTD

15 Điểm a Khoản 1 Điều 108 và Khoản 1 Điều 112 Dự thảo

Trong việc huy động vốn, tổ chức tín dụng (TCTD) xác định nghĩa vụ trả nợ trong một khoảng thời gian nhất định, bao gồm các điều khoản về lãi suất và cam kết khác với người mua TCTD có thể phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn hoặc dài hạn, dưới dạng ghi danh hoặc vô danh để thu hút vốn.

Giấy tờ có giá ngắn hạn là các loại giấy tờ có thời hạn dưới một năm, bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và nhiều loại giấy tờ có giá khác.

Giấy tờ có giá dài hạn là những tài sản tài chính có thời hạn từ một năm trở lên, bao gồm các loại như trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá khác.

Giấy tờ có giá vô danh là loại giấy tờ được phát hành dưới dạng chứng chỉ mà không ghi tên người sở hữu Quyền sở hữu của giấy tờ này thuộc về người nắm giữ, và theo quy định, người sở hữu giấy tờ có giá vô danh phải từ 18 tuổi trở lên.

Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu 19

Theo Dự thảo Luật các Tổ chức tín dụng, hoạt động phát hành giấy tờ có giá được định nghĩa là phương thức huy động vốn của các tổ chức tín dụng thông qua việc phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các loại giấy tờ có giá khác.

Về quyền phát hành giấy tờ có giá:

Huy động vốn bằng nhận tiền gửi

2.1 Khái niệm, ý nghĩa của huy động vốn bằng nhận tiền gửi

2.1.1 Khái niệm huy động vốn bằng nhận tiền gửi

Hoạt động của các Tổ chức tín dụng (TCTD) chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động, làm cho việc huy động vốn trở thành một nghiệp vụ quan trọng Tuy nhiên, Luật các TCTD không cung cấp định nghĩa rõ ràng về khái niệm “huy động vốn” hay “huy động vốn bằng nhận tiền gửi” Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, cần phân tích các yếu tố cấu thành của nó.

“Vốn là toàn bộ giá trị của chủ đầu tư để tạo ra các tài sản nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai” 26

26 Giáo trình Kinh tế học phát triển, Học viện chính trị quốc gia TP.HCM, năm 2002

“Vốn là toàn thể các yếu tố mà một cá nhân sở hữu để thực hiện sản xuất một loại hàng hóa hay một loại dịch vụ nào đó” 27

Vốn là tổng hợp các tài sản ban đầu, thường được thể hiện bằng tiền, được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nhằm mục đích sinh lợi.

“Huy động là điều động một số đông, một số lớn vào một việc gì đó” 29

Từ các cách hiểu về “vốn” và “huy động” như trên, chúng ta có thể rút ra kết luận về huy động vốn bằng nhận tiền gửi như sau:

Huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi là quá trình mà các tổ chức tín dụng (TCTD) thu hút một lượng lớn tiền gửi từ cá nhân và tổ chức trong xã hội Mục đích của việc này là để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của TCTD, từ đó tạo ra lợi nhuận.

2.1.2 Ý nghĩa của hoạt động nhận tiền gửi

Trong các hình thức huy động vốn của tổ chức tín dụng, nhận tiền gửi là hoạt động xuất hiện sớm nhất và mang lại nguồn vốn lớn nhất Đây là hoạt động cơ bản dẫn đến sự hình thành các tổ chức chuyên thực hiện "đi vay để cho vay" Những ngân hàng đầu tiên trên thế giới chỉ đơn thuần là những tổ chức nhận tiền gửi từ các chủ thể có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, như đã được C.Mác và Ph.Ăng ghen ghi nhận trong tuyển tập Tư bản.

Ngân hàng Am-xtéc-đam, được thành lập vào năm 1609, cùng với ngân hàng Hăm-buốc, ra đời năm 1619, không phải là những cột mốc quan trọng trong sự phát triển của hệ thống tín dụng hiện đại Thực chất, chúng chỉ là những ngân hàng nhận tiền gửi.

Thông qua vai trò trung gian tín dụng, các tổ chức tín dụng (TCTD) nhận tiền gửi từ những cá nhân và tổ chức có dư thừa vốn để phân phối lại cho những bên cần vốn Hoạt động này không chỉ mang lại lợi ích cho các khách hàng gửi tiền mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế Khách hàng gửi tiền sẽ nhận được lợi ích từ lãi suất và sự an toàn cho khoản tiền của họ khi gửi tại các TCTD.

TCTD trước hết đó chính là khoản lãi của tiền gửi Bởi vì, tiền mà các TCTD chi phối

Bộ phận tư bản nhàn rỗi chủ yếu nằm trong tay các nhà công nghiệp và thương nghiệp dưới hình thức tiền, đóng vai trò là dự trữ hoặc tư bản chờ đầu tư Ngoài ra, một phần thu nhập từ tiền tiết kiệm cũng góp phần vào việc tích lũy vốn, dù là vĩnh viễn hay tạm thời Những nguồn vốn nhàn rỗi này không tự sinh ra giá trị mà cần có sự đầu tư hợp lý để phát huy tiềm năng của chúng.

27 A.Silem (1999), Bách khoa toàn thư về kinh tế học -Khoa học pháp lí

28 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1994), Từ điển Tiếng Việt

29 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1994), Từ điển Tiếng Việt

30 C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập 25, phần I, trang 125

31 C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập 25, phần II, trang 228

Các tổ chức tín dụng (TCTD) không chỉ tạo ra thu nhập cho chủ sở hữu mà còn thu hút tiền gửi từ khách hàng Họ tập hợp các khoản tiền gửi này và tạo ra lợi nhuận cho người gửi thông qua việc trả lãi cho các khoản tiền gửi.

Người gửi tiền tại TCTD được hưởng nhiều lợi ích nhờ vào sự đảm bảo an toàn cho khoản tiền gửi và các dịch vụ tiện lợi Đối với khách hàng vay, TCTD cung cấp nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh và chi tiêu, giúp họ tiết kiệm thời gian và công sức trong việc tìm kiếm nguồn vốn hợp pháp TCTD cũng thu lợi từ chênh lệch lãi suất giữa tiền gửi và cho vay, điều này quyết định sự tồn tại và phát triển của họ Trong bối cảnh kinh tế, việc cung cấp tài chính cho doanh nghiệp không chỉ khuyến khích sản xuất và tạo việc làm mà còn làm tăng sản lượng và giảm nhập khẩu Hơn nữa, việc điều tiết vốn trong khu vực dân cư góp phần tăng thu nhập và kích thích nhu cầu tiêu dùng, từ đó thúc đẩy sản xuất và kinh doanh TCTD đã chuyển hóa vốn nhàn rỗi thành vốn hoạt động, góp phần vào quá trình luân chuyển vốn hiệu quả.

2.2 Khái niệm và phân loại tiền gửi

Tiền gửi của khách hàng đóng vai trò là nguồn vốn huy động chủ yếu cho các tổ chức tín dụng, đặc biệt là ngân hàng thương mại Trong cơ cấu nguồn vốn của các tổ chức tín dụng, tỷ trọng tiền gửi từ cá nhân và tổ chức kinh tế thường chiếm ưu thế lớn.

Theo Khoản 9 Điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng, tiền gửi là số tiền mà khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới các hình thức như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi có thể được hưởng lãi hoặc không, và phải được hoàn trả cho người gửi.

Như vậy, ta nhận thấy một đặc điểm chung nhất của tiền gửi là chúng phải được hoàn trả khi người gửi tiền có yêu cầu

Căn cứ vào sự khác nhau của phương thức gửi và rút tiền, tiền gửi được chia thành tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn

2.2.2.1 Tiền gửi không kỳ hạn

Tiền gửi không kỳ hạn cho phép người gửi rút tiền hoặc thực hiện thanh toán bất cứ lúc nào mà không cần thông báo trước cho tổ chức nhận tiền gửi.

Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn

Tiền gửi thanh toán là khoản tiền mà doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để được giữ và thực hiện các giao dịch thanh toán Ngân hàng sẽ thực hiện các yêu cầu chi trả trong giới hạn số dư cho phép Loại tiền gửi này cho phép phát hành séc, hỗ trợ các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.

Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là hình thức gửi tiền của cá nhân vào tài khoản tiết kiệm, cho phép người gửi rút tiền bất cứ lúc nào mà không cần thông báo trước, vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ chức nhận tiền gửi.

Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn chỉ áp dụng cho cá nhân và không được sử dụng để phát hành séc hay thực hiện các giao dịch thanh toán, ngoại trừ trường hợp tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng Đồng Việt Nam của người cư trú được dùng để chuyển khoản thanh toán tiền vay của chính chủ sở hữu hoặc chuyển khoản sang tài khoản khác do chính chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu quản lý tại tổ chức nhận tiền gửi Đây là điểm khác biệt quan trọng giữa tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán.

Những ưu và nhược điểm của tiền gửi không kỳ hạn

Tiền gửi không kỳ hạn có những ưu điểm sau:

Điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD

1 Điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD

1.1 Sự cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD

1.1.1 Xuất phát từ tầm quan trọng của pháp luật đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế

Pháp luật là hệ thống quy tắc do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và đảm bảo việc thực hiện các quy định này.

Theo triết học Mác-Lênin, pháp luật là một phần của kiến trúc thượng tầng, hình thành và phát triển dựa trên cơ sở hạ tầng, bao gồm các quan hệ sản xuất trong cơ cấu kinh tế của xã hội Điều này cho thấy cơ sở kinh tế có vai trò quyết định và chi phối đối với sự phát triển của pháp luật.

Pháp luật có ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế, đóng vai trò là động lực phát triển khi phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan Ngược lại, nếu pháp luật không theo kịp sự phát triển kinh tế và không phản ánh thực tế, nó có thể trở thành rào cản, kìm hãm sự phát triển xã hội.

Pháp luật có ảnh hưởng sâu sắc đến các quan hệ sản xuất, điều này đòi hỏi việc xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp với các quy luật phát triển khách quan của nền kinh tế xã hội và khả năng dự đoán các xu hướng phát triển trong tương lai.

Pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp cầm quyền và được thực thi thông qua quyền lực nhà nước, mang tính bắt buộc đối với mọi chủ thể trong xã hội Vì vậy, pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sự ổn định và phát triển của nền kinh tế xã hội.

1.1.2 Xuất phát từ vai trò của hoạt động nhận tiền gửi của TCTD

Huy động vốn qua nhận tiền gửi đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tài chính, mang lại nhiều lợi ích cho các tổ chức nhận tiền gửi.

Ngân hàng không chỉ phục vụ nhu cầu của các chủ thể tham gia vào quan hệ tài chính, như người gửi tiền và khách hàng vay tiền, mà còn đóng góp vào lợi ích chung của nền kinh tế.

Mặc dù hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) mang lại nhiều lợi ích, nhưng việc nhận tiền gửi cũng tiềm ẩn rủi ro có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của các bên liên quan và lợi ích chung của nền kinh tế.

Hoạt động nhận tiền gửi có tác động hai mặt, do đó cần được kiểm soát và điều chỉnh bởi các quy định pháp luật Điều này nhằm tạo ra hành lang pháp lý vững mạnh, giúp các tổ chức tín dụng (TCTD) phát huy vai trò trong sự phát triển xã hội Đồng thời, việc này cũng nhằm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực có thể phát sinh từ hoạt động nhận tiền gửi.

1.1.3 Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người gửi tiền

Hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) phụ thuộc vào lòng tin và sự tín nhiệm của khách hàng gửi tiền Lòng tin này được xây dựng dựa trên hai yếu tố chính: uy tín của TCTD và sự bảo đảm pháp lý từ nhà nước Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra cơ chế bảo vệ người gửi tiền thông qua các quy định pháp luật Bài viết sẽ tập trung phân tích yếu tố bảo đảm pháp lý của nhà nước, nhằm nâng cao lòng tin của người gửi tiền.

Trong mối quan hệ giữa tổ chức tín dụng (TCTD) và người gửi tiền, khách hàng thường thiếu hiểu biết về hoạt động ngân hàng và các rủi ro liên quan Điều này khiến họ không thể nhận thức đầy đủ những bất lợi khi gửi tiền vào TCTD, dẫn đến việc họ cần sự hỗ trợ từ nhà nước để bảo vệ quyền lợi của mình.

Nhà nước, với vai trò đại diện cho quyền lợi của đại bộ phận dân cư, sử dụng pháp luật như công cụ quản lý hiệu quả Việc ban hành các quy định nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) không chỉ bảo vệ quyền lợi hợp pháp mà còn đảm bảo an toàn cho người gửi tiền.

1.2 Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động nhận tiền gửi của TCTD

1.2.1 Điều kiện tham gia vào quan hệ nhận tiền gửi

1.2.1.1 Các điều kiện đối với TCTD khi tham gia vào quan hệ nhận tiền gửi:

Hoạt động ngân hàng, đặc biệt là việc nhận tiền gửi, là một lĩnh vực kinh doanh có điều kiện Để có thể huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi, tổ chức tín dụng (TCTD) cần đáp ứng các "điều kiện cần" để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động Theo Khoản 1 Điều 22 của Luật các TCTD năm 1997, các điều kiện này rất quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp và an toàn trong hoạt động ngân hàng.

Có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn xin hoạt động;

Thành viên sáng lập của tổ chức tín dụng phải là những cá nhân hoặc tổ chức có uy tín và khả năng tài chính vững mạnh Bên cạnh đó, người quản trị và điều hành cần có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cùng với trình độ chuyên môn phù hợp với từng loại hình tổ chức tín dụng.

Có điều lệ tổ chức, hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật

Ngoài các "điều kiện cần" để cấp giấy phép, tổ chức tín dụng (TCTD) chỉ được thực hiện hoạt động ngân hàng khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây.

Có điều lệ được NHNN chuẩn y;

Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, có đủ vốn pháp định và có trụ sở phù hợp với yêu cầu hoạt động ngân hàng;

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các TCTD

2.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD

2.1.1 Đánh giá về hoạt động nhận tiền gửi của các TCTD Đối với các TCTD nguồn vốn huy động là nguồn vốn quan trọng và luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn hoạt động Việc các TCTD huy động đủ nguồn vốn cho công tác sử dụng vốn vừa thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, vừa đảm bảo cho hoạt động của TCTD được ổn định và đạt hiệu quả cao

Hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD) chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động, trong khi nguồn vốn tự có tuy quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ Nguồn vốn tự có chủ yếu được sử dụng để đầu tư vào cơ sở vật chất và xây dựng uy tín với khách hàng.

Các nguồn vốn khác như vốn ủy thác đầu tư và vốn trong thanh toán chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD).

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của nguồn vốn huy động, đặc biệt là tiền gửi từ dân cư và tổ chức kinh tế, các TCTD đã tập trung vào việc tăng cường các biện pháp thu hút nguồn vốn này Hoạt động nhận tiền gửi của các TCTD trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể Để minh chứng cho vai trò của tiền gửi trong tổng nguồn vốn huy động và tốc độ tăng trưởng của nó tại các TCTD, chúng ta có thể đưa ra một số dẫn chứng cụ thể.

Theo báo cáo thường niên năm 2008 của NHTMCP Á Châu: tính đến cuối năm

Năm 2008, tổng vốn huy động của tập đoàn đạt 91.174 tỷ đồng, tăng 16.230 tỷ đồng so với cuối năm 2007 Trong đó, tiền gửi của khách hàng là nguồn huy động chính, chiếm khoảng 82% tổng vốn huy động của tập đoàn.

Theo báo cáo thường niên 2007 của NH Công thương Việt Nam: tính đến 31/12/2007, tổng nguồn vốn huy động của NH là 151.459 tỷ đồng, tăng 24.835 tỷ đồng so với năm

Năm 2006, tổng tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 55.083 tỷ đồng, chiếm 36,4% tổng nguồn vốn huy động và tăng 35,5% so với năm trước Trong đó, tiền gửi của doanh nghiệp có thời hạn ổn định chiếm từ 30-35% tổng nguồn vốn huy động Đồng thời, tiền gửi của dân cư đạt 55.060 tỷ đồng, cũng chiếm 36,4% tổng vốn huy động, với mức tăng 4,3% so với năm 2006 Đặc biệt, tiền gửi tiết kiệm có tính ổn định dài hạn đạt 51.388 tỷ đồng, chiếm 33,9% tổng vốn huy động, tăng 15,2% so với năm trước.

Theo báo cáo thường niên năm 2008 của NHTMCP Phương Nam, tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng đạt 18,089.7 tỷ đồng, tăng 23.7% so với năm 2007 Trong đó, tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 11,407.8 tỷ đồng, chiếm 63% tổng vốn huy động và ghi nhận mức tăng trưởng 19.5% trong năm.

Theo các báo cáo từ các ngân hàng, tổng nguồn vốn huy động và tiền gửi đều tăng trưởng so với năm trước, trong đó tiền gửi chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu nguồn vốn huy động.

85 http://210.245.87.57/Upload/News/ACB%20BCTN%202008.doc

86 http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/annual/index.html

87 http://vinacorp.net/Bao-cao-tai-chinh/OTC/PNB-Ngan-hang-TMCP-Phuong-Nam.aspx

2.1.2 Một số vướng mắc trong quá trình huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD

2.1.2.1 Những vướng mắc từ phía khách hàng gửi tiền

Kết quả huy động tiền gửi của các tổ chức tín dụng (TCTD) phụ thuộc vào nỗ lực thu hút vốn của chính các TCTD, đồng thời cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi hành vi và sự lựa chọn của khách hàng gửi tiền.

Tâm lý thói quen của người dân đóng vai trò quan trọng trong việc gửi tiền vào ngân hàng, đặc biệt ở các nước phát triển, nơi mà người dân coi ngân hàng là phần thiết yếu của nền kinh tế Ngược lại, ở Việt Nam, việc huy động tiền gửi từ người dân vẫn gặp khó khăn do thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng chưa phổ biến, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi mà thanh toán không dùng tiền mặt chưa được chấp nhận rộng rãi Mặc dù có một lượng lớn vốn nhàn rỗi chưa được các tổ chức tín dụng huy động, nhưng việc mở tài khoản thanh toán và thực hiện giao dịch qua ngân hàng đang ngày càng trở nên phổ biến trong các tổ chức kinh tế Tuy nhiên, nhiều cơ quan vẫn trả lương bằng tiền mặt mà chưa mở tài khoản ngân hàng, cho thấy đây là một lĩnh vực tiềm năng mà các tổ chức tín dụng cần khai thác thêm.

2.1.2.2 Những vướng mắc từ phía TCTD

Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, các tổ chức tín dụng (TCTD) đang nỗ lực cải thiện chất lượng dịch vụ và nâng cao tinh thần phục vụ Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số cán bộ, nhân viên có thái độ quan liêu và hiện tượng đùn đẩy khó khăn cho khách hàng Mặc dù những vấn đề này không phổ biến, nhưng chúng vẫn cần được chú ý để nâng cao trải nghiệm của khách hàng.

“con sâu làm rầu nồi canh”, ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh của các TCTD và niềm tin của khách hàng gửi tiền

Mặc dù các thủ tục gửi tiền, rút tiền và yêu cầu thực hiện lệnh thanh toán đã được cải thiện đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều trường hợp chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng.

Thị trường chứng khoán hiện đang phát triển mạnh mẽ, tạo ra cơ hội lớn cho các ngân hàng thu hút nhà đầu tư Để thành công trong việc tiếp cận nhóm khách hàng tiềm năng này, các ngân hàng cần cải thiện quy trình và rút ngắn thời gian thanh toán.

Nhiều nhà đầu tư vẫn giữ thói quen sử dụng tiền mặt để giao dịch thay vì chuyển khoản qua ngân hàng, chủ yếu do thủ tục thanh toán qua ngân hàng phức tạp và tốn thời gian Trong khi đó, nhu cầu tiền gấp để thực hiện giao dịch trên thị trường lại rất cao, vì tính chất "thời điểm" của các giao dịch này.

Mạng lưới chi nhánh của các TCTD còn hạn chế và phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn Số lượng máy rút tiền tự động của nhiều ngân hàng vẫn chưa được mở rộng, điều này ảnh hưởng đáng kể đến khả năng huy động nguồn tiền gửi của các TCTD.

Các hình thức tiền gửi đã được đa dạng nhưng vẫn chưa đáp ứng hết được nhu cầu của khách hàng

2.1.2.3 Những vướng mắc từ điều kiện kinh tế

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:24

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Chủ biên: GS.Võ Đình Hảo, (H1993), Các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường, Viện kinh tế tài chính, Bộ tài chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường
9. Chủ biên, GS.TS. Lê Văn Tư Các nghiệp vụ NHTM, NXB Thống kê Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nghiệp vụ NHTM
Nhà XB: NXB Thống kê
10. GS.TS. Lê Văn Tư “Vấn đề dự trữ tiền mặt trong hoạt động ngân hàng từ buổi sơ khai đến cận đại”, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Tài chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề dự trữ tiền mặt trong hoạt động ngân hàng từ buổi sơ khai đến cận đại”, "Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính
Nhà XB: NXB Tài chính
11. David Cox (1997), Nghiệp vụ NH hiện đại, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiệp vụ NH hiện đại
Tác giả: David Cox
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 1997
12. GSTS Lê Văn Tư và Lê Tùng Vân “Vấn đề dự trữ tiền mặt trong hoạt động của NH hiện đại”, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Tài chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề dự trữ tiền mặt trong hoạt động của NH hiện đại”, " Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính
Nhà XB: NXB Tài chính
14. Vũ Thị Thùy Dương “Khi nào thì nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm”, Tạp chí ngân hàng, (10), tháng 5/2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khi nào thì nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm”, "Tạp chí ngân hàng
15. Xem thêm, TS. Nguyễn Văn Lương “Các TCTD có cần có một luật phá sản riêng?”, Trường đại học Ngân hàng TP.HCM, Hoàn thiện luật ngân hàng- những đòi hỏi từ hội nhập kinh tế quốc tế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các TCTD có cần có một luật phá sản riêng?”, Trường đại học Ngân hàng TP.HCM
2. Luật số 10/2003/QH 11 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD 1997 3. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam Khác
7. Dự thảo Luật các TCTD ngày 19/4/2009 Khác
8. Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của các TCTD, ban hành kèm theo Quyết định 07/2008/QĐ-NHNN Khác
9. Quy chế vay vốn giữa các TCTD, ban hành kèm theo Quyết định 1310/2001/QĐ- NHNN Khác
10. Quy chế tiền gửi tiết kiệm, ban hành kèm theo Quyết định 1160/2004/QĐ- NHNN Khác
11. Nghị định 89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi Khác
12. Nghị định 109/2005/NĐ-CP về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi Khác
13. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Khác
14. Nghị định 70/2000/NĐ-CP về giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng Khác
15. Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD, ban hành kèm theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNNII) Sách và tạp chí tham khảo Khác
2. Học viện chính trị quốc gia TP.HCM (2002), Giáo trình Kinh tế học phát triển Khác
3. A.Silem (1999), Bách khoa toàn thư về kinh tế học -Khoa học pháp lí Khác
4. Viện khoa học xã hội Việt Nam (1994), Từ điển Tiếng Việt Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w