Khái quát về hoạt động môi giới chứng khoán
Khái niệm, bản chất của hoạt động môi giới chứng khoán
Theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt của Giáo sư Nguyễn Lân, “môi giới” được giải nghĩa là “một người trung gian thực hiện những hành vi giúp cho hai bên giao thiệp được với nhau” 1
Như vậy theo nghĩa thông thường môi giới là hành vi dẫn dắt, kết nối những người có nhu cầu mua bán lại với nhau Thông qua người môi giới, những người có nhu cầu mua bán hàng hóa, dịch vụ sẽ được gặp gỡ, tìm hiểu về những cái mình cần mua, bán và thỏa thuận với nhau những điều kiện cụ thể để có thể tiến tới thực hiện việc mua bán
Trong lĩnh vực thương mại, khái niệm môi giới được định nghĩa như sau:
“Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới” 2
Như vậy, trong thương mại thuật ngữ “môi giới” được sử dụng để chỉ một hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện (là một hình thức trung gian thương mại) với công việc chính là giúp cho các bên tiếp cận được với nhau và đi đến ký kết các hợp đồng vì lợi ích của họ
Pháp luật hiện hành qui định các hình thức trung gian thương mại ngoài môi giới thương mại còn có khái niệm “đại diện cho thương nhân”, “đại lý thương mại”,
“ủy thác mua bán hàng hóa”….Cụ thể như sau:
“Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận ủy nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện” 3
“Ủy thác mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận ủy thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên ủy thác và được nhận thù lao ủy thác” 4
1 Nguyễn Lân (2002), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội
2 Điều 150 Luật thương mại số 36/2005/QH 11 ngày 14/6/2005
3 Điều 141 Luật thương mại số 36/2005/QH 11 ngày 14/6/2005
4 Điều 155 Luật thương mại số 36/2005/QH 11 ngày 14/6/2005
Đại lý thương mại là hình thức hoạt động thương mại, trong đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận để bên đại lý thực hiện việc mua, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng, nhằm nhận thù lao.
Môi giới thương mại khác biệt với các hình thức trung gian khác ở chỗ không đại diện cho bất kỳ bên nào trong quá trình giao dịch Vai trò của môi giới thương mại là kết nối những người có nhu cầu mua và bán, giúp họ tự thương lượng và xem xét hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện giao dịch dựa trên thỏa thuận giữa hai bên.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam công nhận nhiều hoạt động môi giới thương mại, bao gồm môi giới chứng khoán, hàng hóa, dịch vụ, bảo hiểm và bất động sản.
Trong các tài liệu kinh tế, môi giới chứng khoán được định nghĩa như sau:
Môi giới chứng khoán (MGCK) là người đại diện cho khách hàng trong việc tư vấn và thực hiện giao dịch Ở các thị trường chứng khoán phát triển, bất kỳ tổ chức, công ty hay cá nhân nào cũng có thể trở thành nhà môi giới Tuy nhiên, tại Việt Nam, chỉ các công ty chứng khoán (CTCK) mới được công nhận thực hiện hoạt động MGCK, trong khi pháp luật không cho phép cá nhân làm điều này Điều này xuất phát từ tính phức tạp của hoạt động MGCK, đòi hỏi các điều kiện pháp lý và tổ chức cũng như tài chính để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong giao dịch.
Trong lĩnh vực chứng khoán, cá nhân có chứng chỉ hành nghề nhưng không có hợp đồng lao động với công ty chứng khoán (CTCK) chỉ được coi là đội ngũ tiếp thị và phát triển kinh doanh Họ chỉ có thể giới thiệu khách hàng mở tài khoản tại CTCK, trong khi việc thực hiện nghiệp vụ môi giới cho khách hàng mà không có hợp đồng là trái pháp luật và khách hàng sẽ phải chịu toàn bộ rủi ro trong trường hợp xảy ra tranh chấp Bà Bùi Thị Thanh Hương, Trưởng ban quản lý kinh doanh chứng khoán của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, nhấn mạnh rằng chỉ những người có hợp đồng lao động với CTCK cho vị trí "môi giới" mới được coi là môi giới chứng khoán hợp pháp.
5 Điều 166 Luật thương mại số 36/2005/QH 11 ngày 14/6/2005
6 Bảo Nguyên (2007), “Môi giới chứng khoán là gì?”, Báo Lao động, đăng ngày 25/10/2007
7 Phong Lan (2008), “Chứng khoán Việt Nam chưa cho phép môi giới tự do”, Báo thông tin và dữ liệu tài chính Việt Nam, đăng ngày 21/2/2008
Vậy hoạt động MGCK của các CTCK được hiểu như thế nào?
Theo Ths Bùi Kim Yến, MGCK là hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán, trong đó công ty này đại diện cho khách hàng thực hiện giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC Khách hàng sẽ chịu trách nhiệm về hậu quả kinh tế từ các giao dịch này.
MGCK là hoạt động trong đó công ty chứng khoán (CTCK) đại diện cho các bên mua và bán chứng khoán, thực hiện giao dịch mua bán theo yêu cầu của khách hàng.
Các công ty chứng khoán (CTCK) khi thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán (MGCK) sẽ đại diện cho khách hàng để thu xếp các giao dịch và nhận hoa hồng, hay còn gọi là phí môi giới Trong trường hợp này, CTCK không được phép mua bán chứng khoán cho chính mình, mà chỉ đóng vai trò kết nối giữa người mua và người bán Qua CTCK, quá trình chuyển nhượng chứng khoán và tiền sẽ diễn ra từ khách hàng bán sang khách hàng mua.
Nội dung hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối người bán với người mua, giúp quá trình giao dịch diễn ra nhanh chóng, chính xác và hiệu quả Các hoạt động của môi giới chứng khoán không chỉ đảm bảo sự an tâm cho nhà đầu tư mà còn tối ưu hóa lợi nhuận cho họ Những công việc chính của môi giới chứng khoán bao gồm tư vấn, thực hiện giao dịch và cung cấp thông tin thị trường, nhằm hỗ trợ nhà đầu tư trong việc ra quyết định đầu tư.
8 Bùi Kim Yến (2005), “Hoàn thiện nghiệp vụ môi giới tại các công ty chứng khoán”, Tạp chí phát triển kinh tế số 181
Theo Điều 9 của Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/6/2006, công ty chứng khoán (CTCK) có trách nhiệm mở tài khoản cho khách hàng để thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán Đồng thời, CTCK cũng phải cung cấp thông tin cần thiết cho khách hàng thông qua các nhân viên môi giới chứng khoán, bao gồm báo cáo, nhận định và phân tích từ các chuyên gia trong lĩnh vực này Những thông tin mà khách hàng nhận được được phân chia thành ba lĩnh vực chính.
Diễn biến tổng thể thị trường
Động thái của từng khu vực riêng biệt trong thị trường đó
Các công ty chứng khoán (CTCK) nhận lệnh giao dịch từ khách hàng qua nhiều phương tiện như phiếu lệnh, điện thoại, fax hoặc máy tính Nhân viên môi giới sẽ kiểm tra tài khoản và tính hợp lệ của lệnh trước khi chuyển đến Sở giao dịch Sau khi lệnh được thực hiện, CTCK có trách nhiệm thông báo kết quả giao dịch ngay lập tức và gửi phiếu xác nhận chính thức sau đó Đồng thời, CTCK cũng thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng mở tài khoản và cung cấp dịch vụ môi giới cho khách hàng.
Quản lý tài khoản cho khách hàng bao gồm việc lưu giữ và quản lý tiền, nhận và quản lý chứng khoán, cũng như theo dõi cổ tức và sao kê tài khoản Công việc này đảm bảo rằng khách hàng có thể yên tâm về tài sản và giao dịch của mình.
Khách hàng là người thụ hưởng có quyền nhận thu nhập từ chứng khoán, bao gồm cổ tức và tiền lãi trái phiếu Mặc dù CTCK nhận cổ tức, nhưng trách nhiệm của họ là đảm bảo khách hàng nhận được cổ tức đúng hạn Ngoài ra, CTCK cần thực hiện sao kê tài khoản định kỳ, liệt kê chi tiết mọi thay đổi trong tài khoản Khách hàng phải kiểm tra tính chính xác của các giao dịch như mua, bán và cổ tức nhận được, cũng như số dư cuối cùng của tài khoản Nếu phát hiện sai sót, khách hàng cần thông báo kịp thời cho CTCK để được chỉnh sửa hoặc giải quyết.
CTCK có quyền thu phí giao dịch từ hoạt động mua bán của khách hàng theo hợp đồng đã ký Mức phí giao dịch phải được thông báo cho khách hàng trước khi ký hợp đồng mở tài khoản và trong trường hợp có thay đổi Mức phí này không được thấp hơn hoặc cao hơn so với khung phí quy định của pháp luật về chứng khoán.
Bảo mật thông tin khách hàng là ưu tiên hàng đầu của các công ty chứng khoán Tất cả thông tin cá nhân như tên, địa chỉ, nghề nghiệp, cùng với các dữ liệu giao dịch như loại chứng khoán, giá trị và số lượng mua bán phải được giữ kín tuyệt đối Chỉ trong trường hợp có sự đồng ý của khách hàng hoặc theo yêu cầu của tòa án, các thông tin này mới được tiết lộ để phục vụ cho các vụ tranh chấp dân sự hoặc các vụ án hình sự.
Đặc trưng của hoạt động môi giới chứng khoán
Hoạt động môi giới đã tồn tại hàng trăm năm trong nền kinh tế hàng hóa, đặc biệt khi người mua và người bán không thể gặp nhau MGCK ra đời với vai trò là trung gian, kết nối sản phẩm dịch vụ từ người bán đến người mua và nhận phí môi giới Tuy nhiên, thị trường cao cấp và các sản phẩm phức tạp yêu cầu người môi giới có kiến thức sâu về tổ chức và vận hành thị trường chứng khoán, cùng với những phẩm chất và kỹ năng đặc thù Những đặc trưng của hoạt động MGCK được thể hiện qua các điểm nổi bật sau.
Trong giai đoạn đầu phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, hoạt động môi giới chứng khoán (MGCK) chỉ được thực hiện bởi các công ty chứng khoán (CTCK) đã được cấp phép Các ngân hàng muốn tham gia vào MGCK cần thành lập một CTCK độc lập để hoạt động chuyên nghiệp Hoạt động MGCK được thực hiện thông qua hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán giữa CTCK và khách hàng, giúp CTCK có cơ sở pháp lý để thực hiện trách nhiệm mua bán chứng khoán cho khách hàng và thu phí môi giới khi giao dịch kết thúc.
Trong hoạt động môi giới chứng khoán (MGCK), công ty chứng khoán (CTCK) đóng vai trò là trung gian giữa người mua và người bán Bổn phận của CTCK được coi là hoàn thành khi giao dịch mua bán chứng khoán diễn ra thành công Điểm khác biệt lớn giữa MGCK và các loại hình môi giới khác là CTCK không cần sắp xếp để người mua và người bán gặp gỡ trực tiếp Thay vào đó, cả hai bên chỉ cần ủy quyền cho nhà môi giới thực hiện giao dịch thay cho mình Do đó, mặc dù người mua và người bán không biết nhau và không gặp mặt, nhưng vẫn tồn tại một hợp đồng mua bán chứng khoán, được thiết lập gián tiếp thông qua các giao dịch của CTCK.
Nội dung của hoạt động môi giới chứng khoán (MGCK) là việc công ty chứng khoán (CTCK) sử dụng chuyên môn và hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực chứng khoán để thực hiện giao dịch cho khách hàng nhằm hưởng phí môi giới Trong quá trình này, CTCK có trách nhiệm tối đa để đảm bảo khách hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ Pháp luật và đạo đức kinh doanh cấm CTCK lợi dụng chuyên môn để gây thiệt hại cho khách hàng, chẳng hạn như sử dụng vốn của khách hàng cho lợi ích cá nhân hoặc ưu tiên thực hiện lệnh của mình trước lệnh của khách hàng Để thực hiện nghiệp vụ MGCK, CTCK cần mở tài khoản giao dịch chứng khoán cho từng khách hàng dựa trên hợp đồng đã ký kết.
Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán
Qua 8 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển tuy không tạo được những bước đột phá nhưng là sự phát triển vững chắc đều đặn, trong đó hoạt động môi giới của các CTCK đã từng bước phát triển cùng với hoạt động giao dịch trên thị trường Song hành cùng với các nghiệp vụ khác của CTCK, nhưng trong giai đoạn sơ khai hiện nay, tại Việt Nam, các CTCK coi đây nghiệp vụ quan trọng nhất của mình Vai trò của MGCK không chỉ mang tính cục bộ đối với sự sinh tồn của các CTCK mà nó còn có vai trò to lớn đối với các NĐT nói riêng và sự phát triển của TTCK nói chung Khía cạnh đó của MGCK được thể hiện ở những mặt sau: a) Đối với thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán (TTCK) là hình thức phát triển cao của thị trường hàng hóa, nơi giao dịch các hàng hóa vô hình như cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác Với hàng triệu người mua và bán trên toàn cầu, việc kết nối giữa người mua và người bán trở nên khó khăn, dẫn đến tình trạng bế tắc trong giao dịch Nếu không có giải pháp hiệu quả, thị trường chứng khoán sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động.
Hoạt động MGCK đóng vai trò cầu nối giữa người mua và người bán, tạo điều kiện cho họ tiếp xúc, đánh giá giá trị hàng hóa và chứng khoán Đồng thời, MGCK hỗ trợ thực hiện giao dịch mua bán, góp phần tăng cường thanh khoản cho thị trường, mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư.
Giảm phí giao dịch cho khách hàng:
Trên thị trường chứng khoán, việc giao dịch giữa người bán và người mua yêu cầu họ gặp nhau, thẩm định chất lượng hàng hóa và thỏa thuận giá cả Tuy nhiên, để thực hiện điều này, cần một khoản chi phí lớn cho việc thu thập và xử lý thông tin, cũng như giao dịch trong hệ thống đấu giá Chỉ các công ty chứng khoán (CTCK) chuyên nghiệp và quy mô lớn mới có khả năng chi trả cho những chi phí này Sự hiện diện của các CTCK không chỉ giúp kết nối người mua và bán mà còn giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, soạn thảo và giám sát hợp đồng Do đó, vai trò của CTCK là tiết kiệm chi phí cho từng giao dịch và toàn bộ thị trường.
Bảo vệ quyền lợi và đóng góp vào sự thành công trong quá trình đầu tư của NĐT chứng khoán
Thị trường phát triển cao mang lại sự phong phú và đa dạng về sản phẩm và dịch vụ Do đó, việc cung cấp thông tin cần thiết, ý tưởng đầu tư và lời khuyên chiến lược cho nhà đầu tư (NĐT) trở nên quan trọng hơn bao giờ hết Điều này đòi hỏi sự chuyên nghiệp và hiệu quả từ các công ty chứng khoán (CTCK) cũng như nhân viên môi giới chứng khoán (MGCK) để NĐT thực hiện giao dịch một cách có lợi nhất.
MGCK không chỉ giúp rút ngắn thời gian tìm kiếm giữa người mua và người bán, mà còn đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của các nhà đầu tư Chứng khoán là sản phẩm tài chính đặc biệt, không cho phép người mua đánh giá chất lượng bằng giác quan như các hàng hóa khác Đầu tư vào chứng khoán đồng nghĩa với việc đầu tư vào các giấy tờ có giá, với thu nhập phụ thuộc vào khả năng sinh lợi của công ty, khả năng này lại bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm xu hướng kinh tế toàn cầu và đặc điểm riêng của ngành cũng như công ty.
Để đánh giá chất lượng sản phẩm tài chính và khả năng mang lại lợi nhuận ổn định, cần một hệ thống thu thập và xử lý thông tin chuyên nghiệp Các nhà đầu tư cá nhân thường không có đủ kỹ năng và công cụ cần thiết để thực hiện điều này Do đó, họ cần sự hỗ trợ từ các chuyên viên môi giới chuyên nghiệp, những người có khả năng phân tích và đánh giá các sản phẩm tài chính, từ đó cung cấp tư vấn chính xác và hiệu quả cho khách hàng.
Chủ thể thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán
Từ khi thành lập, thị trường chứng khoán Việt Nam luôn yêu cầu các nhà đầu tư thực hiện giao dịch thông qua một chủ thể trung gian, có thể là cá nhân, tổ chức hoặc công ty chứng khoán Hoạt động môi giới chứng khoán tại Việt Nam được xem là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, do đó cần phải được quản lý chặt chẽ Các tổ chức và cá nhân muốn tham gia vào lĩnh vực này phải thành lập công ty chứng khoán và được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp phép.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công ty chứng khoán (CTCK) được định nghĩa là tổ chức có tư cách pháp nhân chuyên kinh doanh chứng khoán CTCK thực hiện một hoặc nhiều hoạt động như môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán và cung cấp tư vấn đầu tư chứng khoán.
Lịch sử phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) toàn cầu cho thấy sự hình thành và phát triển của các công ty chứng khoán (CTCK) là điều tất yếu Khi TTCK ngày càng phát triển, chức năng và quy mô hoạt động giao dịch của các nhà môi giới cũng tăng lên, điều này khiến các nhà môi giới cá nhân không thể tiếp tục hoạt động độc lập.
Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 đã ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của các công ty chứng khoán (CTCK), yêu cầu sự hình thành các CTCK như một tập hợp có tổ chức của các nhà môi giới độc lập Sự ra đời của các CTCK đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thị trường chứng khoán (TTCK) hoạt động một cách trật tự, công bằng và hiệu quả.
Công ty chứng khoán (CTCK) là tổ chức kinh doanh chứng khoán có tư cách pháp nhân và vốn riêng, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế dưới sự cấp phép của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) CTCK có thể được thành lập dưới hình thức Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần, tuân thủ quy định của Luật Doanh nghiệp Ngoài ra, việc thành lập CTCK cũng phải đáp ứng các điều kiện và hồ sơ theo quy định của Luật Chứng khoán.
Tương ứng với các mức vốn pháp định khác nhau, CTCK được thực hiện các nghiệp vụ được pháp luật cho phép bao gồm:
Môi giới chứng khoán: là việc CTCK làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng
Tự doanh chứng khoán: Là nghiệp vụ mà trong đó CTCK thực hiện mua và bán chứng khoán cho chính mình
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán là quá trình mà tổ chức bảo lãnh cam kết hỗ trợ tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán Tổ chức bảo lãnh có thể mua một phần hoặc toàn bộ số chứng khoán để bán lại, hoặc đảm nhận việc phân phối số chứng khoán chưa được phân phối hết cho công chúng.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là hoạt động mà các công ty chứng khoán (CTCK) cung cấp cho nhà đầu tư (NĐT) những phân tích chuyên sâu, báo cáo chi tiết và khuyến nghị liên quan đến các chứng khoán.
Điều kiện triển khai hoạt động môi giới chứng khoán
Để được cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam, các công ty chứng khoán (CTCK) cần đáp ứng ba điều kiện chính Thứ nhất, CTCK phải có trụ sở làm việc rõ ràng Thứ hai, cần có trang bị và thiết bị phù hợp để phục vụ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán Các yếu tố này là rất quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả trong hoạt động của CTCK.
Quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu một năm, trong đó diện tích làm sàn giao dịch phục vụ NĐT tối thiểu 150 m 2 ;
Chúng tôi sở hữu đầy đủ cơ sở vật chất và kỹ thuật cần thiết cho hoạt động kinh doanh, bao gồm sàn giao dịch phục vụ khách hàng, thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng các phần mềm hỗ trợ giao dịch chứng khoán, và trang thông tin điện tử với bảng tin cập nhật.
11 Các điều kiện cụ thể được qui định tại Đ62, 63 Luật Chứng khoán; Đ18 Nghị định 14/2007/NĐ-CP
12 Khoản 20,21,22,23 Điều 6 Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/6/2006
Theo Điều 62 của Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/6/2006, các công ty chứng khoán (CTCK) có trách nhiệm công bố thông tin cho khách hàng về hệ thống kho, két bảo quản chứng khoán, tiền mặt và các tài sản có giá trị khác Đồng thời, CTCK cũng cần lưu giữ tài liệu và chứng từ giao dịch liên quan đến hoạt động môi giới và tự doanh chứng khoán.
Hệ thống phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật;
Có hệ thống an ninh, bảo vệ an toàn trụ sở làm việc 14
Để CTCK được cấp giấy phép thành lập và hoạt động, ngoài các yêu cầu chung về trụ sở và trang thiết bị, nghiệp vụ môi giới chứng khoán (MGCK) còn cần một điều kiện đặc biệt Điều kiện này yêu cầu phải có sàn giao dịch phục vụ khách hàng, tức là một không gian đủ lớn để khách hàng có thể đến, ngồi xem bảng giao dịch điện tử và thực hiện giao dịch.
Yêu cầu về sàn giao dịch là thiết yếu trong giai đoạn đầu phát triển của công ty chứng khoán (CTCK), vì trong giai đoạn này, nhà đầu tư (NĐT) thường thực hiện lệnh thông qua việc ghi phiếu lệnh tại CTCK Do trình độ còn hạn chế, NĐT chủ yếu tiếp nhận thông tin qua trao đổi với các NĐT khác và thông tin từ CTCK Nếu không có sàn giao dịch, việc đặt lệnh của khách hàng sẽ không thể thực hiện, dẫn đến CTCK không thể thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán của mình Bên cạnh đó, CTCK cũng cần có đủ vốn pháp định theo quy định của Chính phủ.
“Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để có thể thành lập một doanh nghiệp” 15
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề có điều kiện về vốn pháp định, việc đáp ứng yêu cầu về vốn này là bắt buộc để được thành lập và hoạt động Vốn pháp định do cơ quan có thẩm quyền quy định, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo doanh nghiệp có khả năng thực hiện các hoạt động kinh doanh Mức vốn pháp định sẽ khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh cụ thể.
Kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam là một ngành nghề có điều kiện, yêu cầu các công ty chứng khoán (CTCK) phải có vốn pháp định theo quy định của pháp luật Để thành lập doanh nghiệp trong lĩnh vực này, các CTCK cần chứng minh đủ vốn điều lệ theo luật định nhằm đảm bảo khả năng hoạt động kinh doanh hiệu quả.
14 Điều 3 Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 về việc ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của CTCK
Theo Điều 4 của Luật Doanh Nghiệp số 60/2005/QH11, doanh nghiệp có thể chứng minh năng lực tài chính thông qua việc mở tài khoản tại tổ chức được Nhà nước quy định, thường là ngân hàng, để nhận giấy xác nhận hoặc có kết quả kiểm toán từ tổ chức kiểm toán độc lập về tình trạng tài sản Đối với công ty chứng khoán (CTCK), số vốn pháp định phải được gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) chỉ định, kèm theo xác nhận về số vốn trên tài khoản này Số vốn chỉ được giải tỏa và chuyển vào tài khoản của CTCK sau khi UBCKNN cấp Giấy phép thành lập và hoạt động.
Vốn pháp định của các công ty chứng khoán (CTCK) được quy định khác nhau tùy thuộc vào nghiệp vụ mà mỗi CTCK đã đăng ký Cụ thể, đối với nghiệp vụ môi giới chứng khoán (MGCK), Luật chứng khoán, quy chế của Sở giao dịch chứng khoán và các Nghị định hướng dẫn đã đưa ra các quy định tương ứng.
Mức vốn pháp định để thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán (MGCK) trong giai đoạn đầu khi công ty chứng khoán (CTCK) mới thành lập được quy định ở mức 3 tỷ đồng, một con số khá thấp Quy định này thể hiện sự ưu ái của chính phủ đối với các công ty trong lĩnh vực chứng khoán, nhằm khuyến khích thành lập CTCK trong bối cảnh thị trường mới phát triển, khi các tổ chức trung gian còn thiếu và không đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường.
Sự phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) và sự mở rộng quy mô hoạt động của các công ty chứng khoán (CTCK) đã dẫn đến việc quy định vốn pháp định trở nên quá dễ dãi, không đảm bảo tính cạnh tranh và chất lượng dịch vụ Điều này tạo điều kiện cho sự phát triển tràn lan, thiếu hệ thống của các CTCK Do đó, Chính phủ đã quyết định điều chỉnh mức vốn pháp định trong các văn bản pháp luật sau này, đặc biệt là Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007, quy định mức vốn pháp định cho các hoạt động môi giới chứng khoán là 25 tỷ đồng, tự doanh 100 tỷ đồng, bảo lãnh phát hành 165 tỷ đồng và tư vấn 10 tỷ đồng.
16 Trần Huỳnh Thanh Nghị (2009), “Qui định về vốn pháp định trong thành lập và hoạt động doanh nghiệp”,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử
17 Điều 7 Quyết định 126/2008/QĐ- BTC ngày 26/12/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của “Quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK”
18 Khoản 3 Điều 66 Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán
19 Điều 18 Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007 Qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán
Mức vốn pháp định cho một công ty chứng khoán (CTCK) có nhiều nghiệp vụ là tổng vốn pháp định của các nghiệp vụ đó Theo quy định hiện hành, một CTCK muốn hoạt động đầy đủ 4 nghiệp vụ phải có mức vốn pháp định tối thiểu là 300 tỷ đồng.
Quy định về vốn pháp định là cần thiết để đảm bảo an toàn cho hoạt động của các công ty chứng khoán (CTCK), cũng như bảo vệ trách nhiệm tài sản của CTCK đối với đối tác và chủ nợ Điều này giúp bảo vệ tài sản của nhà đầu tư (NĐT) tham gia vào thị trường chứng khoán (TTCK) khi có thiệt hại xảy ra Ngoài ra, giám đốc hoặc tổng giám đốc cùng các nhân viên thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán (MGCK) phải sở hữu chứng chỉ hành nghề MGCK.
Chứng chỉ hành nghề chứng khoán là văn bằng xác nhận đủ điều kiện làm việc tại các vị trí chuyên môn trong công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và công ty đầu tư chứng khoán hợp pháp tại Việt Nam.
Chứng chỉ hành nghề là yếu tố quan trọng để đánh giá năng lực của cá nhân trong công việc được giao, đặc biệt là đối với Tổng giám đốc và nhân viên môi giới chứng khoán Việc yêu cầu chứng chỉ nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động môi giới và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, nhất là trong bối cảnh thị trường chứng khoán tiềm ẩn nhiều rủi ro Những sai sót của nhân viên môi giới có thể vi phạm quy định pháp luật, gây thiệt hại về tài chính và uy tín cho công ty chứng khoán, đồng thời dẫn đến tổn thất lớn cho nhà đầu tư Do đó, việc đảm bảo nhân viên có kiến thức vững về thị trường chứng khoán, pháp luật liên quan và quy trình nghiệp vụ là cần thiết để giảm thiểu rủi ro và tranh chấp phát sinh từ sự thiếu hiểu biết Điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán cho cá nhân bao gồm nhiều nội dung quan trọng.
Pháp luật về hoạt động MGCK của các CTCK
Mở tài khoản giao dịch
Để tham gia giao dịch chứng khoán, nhà đầu tư cần mở tài khoản tại một công ty chứng khoán (CTCK) là thành viên của Sở giao dịch Thủ tục mở tài khoản chứng khoán tương tự như mở tài khoản ngân hàng, yêu cầu cung cấp thông tin thiết yếu cho mục đích quản lý Lưu ý rằng mỗi cá nhân chỉ được mở một tài khoản đứng tên mình và chỉ tại một CTCK duy nhất.
Để mở tài khoản giao dịch chứng khoán, nhà đầu tư cần điền đầy đủ thông tin trong Giấy yêu cầu mở tài khoản tại công ty chứng khoán mà họ muốn giao dịch, kèm theo các giấy tờ cần thiết.
Bản sao CMND hay Hộ chiếu
Bản sao Giấy phép làm việc (cho cá nhân người nước ngoài làm việc tại VN)
Thẻ chữ ký mẫu (do CTCK cung cấp)
21 Điều 4 Quyết định 15/2008/QĐ/BTC ngày 27/3/2008 ban hành qui chế hành nghề chứng khoán.
Việc ký chữ ký mẫu vào thẻ chữ ký mẫu do công ty chứng khoán (CTCK) cung cấp là rất quan trọng đối với nhà đầu tư (NĐT) để đảm bảo tính pháp lý trong việc lưu giữ hồ sơ của CTCK Điều này giúp giải quyết các vi phạm phát sinh trong giao dịch, như trường hợp giả mạo chữ ký để thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán, gây thiệt hại cho chủ tài khoản Do quy trình mở tài khoản, đặt lệnh hoặc rút tiền thường diễn ra tại nhiều bộ phận khác nhau của CTCK, nên nhân viên không thể xác nhận danh tính của người ra lệnh mà chỉ có thể dựa vào chữ ký để xác minh.
Khi mở tài khoản giao dịch chứng khoán, nếu bạn muốn ủy quyền cho người khác thực hiện giao dịch thay mình, cần cung cấp thông tin cá nhân của người được ủy quyền trong phiếu yêu cầu mở tài khoản Thông tin này bao gồm phạm vi ủy quyền (như đặt lệnh giao dịch, rút tiền, chuyển khoản, nhận kết quả giao dịch, bản sao kê tài khoản, và đóng tài khoản), thời hạn ủy quyền, và điều kiện chấm dứt ủy quyền Đây là vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến tài khoản của nhà đầu tư, vì vậy công ty chứng khoán thường yêu cầu người được ủy quyền có mặt, xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, và ký chữ ký mẫu trên phiếu yêu cầu mở tài khoản Người được ủy quyền sẽ thực hiện các công việc đã được ủy quyền, và chủ tài khoản không thể khiếu nại công ty chứng khoán về những sai sót do người được ủy quyền gây ra trong quá trình thực hiện quyền hạn đã được cho phép.
Bản sao Điều lệ Công ty
Nghị quyết chỉ định cán bộ lãnh đạo tham gia ký kết và điều hành tài khoản tại CTCK
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hay giấy phép thành lập) Đối với NĐT nước ngoài phải có thêm Mã số giao dịch chứng khoán
Sau khi hoàn tất việc điền thông tin vào giấy yêu cầu mở tài khoản, nhà đầu tư cần ký hợp đồng mở tài khoản và cung cấp dịch vụ với công ty chứng khoán.
Sau khi ký kết hợp đồng, nhà đầu tư trở thành khách hàng của công ty chứng khoán, đánh dấu thời điểm hiệu lực của các quyền lợi và nghĩa vụ từ hợp đồng Hai bên cần tuân thủ các điều khoản đã cam kết, điều này rất quan trọng để giải quyết tranh chấp có thể phát sinh trong quá trình cung cấp dịch vụ của công ty chứng khoán.
Khi ký hợp đồng mở tài khoản, các công ty chứng khoán (CTCK) cần phải tìm hiểu đầy đủ thông tin về khách hàng và tư vấn cho họ về các rủi ro liên quan đến đầu tư chứng khoán Việc này đảm bảo khách hàng hiểu rõ trước khi tham gia vào thị trường.
Tài khoản giao dịch có thể được phân thành 3 loại 22 :
Tài khoản thông thường là loại tài khoản cơ bản mà khách hàng sử dụng để tiếp cận dịch vụ của công ty chứng khoán (CTCK) Với loại tài khoản này, CTCK chủ yếu cung cấp dịch vụ môi giới, đáp ứng nhu cầu giao dịch tối thiểu của khách hàng.
Tài khoản tư vấn cho phép khách hàng ký hợp đồng với chuyên gia đầu tư của CTCK, ủy quyền cho họ thực hiện giao dịch chứng khoán theo các điều kiện đã thỏa thuận Chuyên gia đầu tư có trách nhiệm thực hiện giao dịch một cách cẩn trọng để đạt được mục tiêu đã đề ra Khách hàng sẽ chịu mọi chi phí liên quan đến giao dịch và phí quản lý tài khoản cho chuyên gia Thông thường, CTCK yêu cầu một giá trị tài sản tối thiểu để mở loại tài khoản này.
Tài khoản ủy thác là loại tài khoản cho phép người quản lý thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán mà không cần thông báo hay được sự chấp thuận trước từ chủ tài khoản Khách hàng thường ủy thác cho người quản lý quyền hạn rộng lớn, phù hợp với các điều kiện quản lý tài khoản trong hợp đồng đã ký Tuy nhiên, loại tài khoản này cũng tiềm ẩn nguy cơ xung đột lợi ích giữa người quản lý và chủ tài khoản.
Quản lý tiền và chứng khoán của khách hàng
a) Quản lý tiền của khách hàng
Theo quy định, công ty chứng khoán (CTCK) phải quản lý tiền gửi giao dịch chứng khoán của khách hàng một cách tách biệt với tiền của chính mình CTCK không được phép trực tiếp nhận tiền giao dịch chứng khoán từ khách hàng; thay vào đó, khách hàng phải mở tài khoản tiền tại ngân hàng thương mại (NHTM) do CTCK chỉ định.
Trước đây, trong hình thức giao dịch truyền thống, tài khoản chứng khoán và tài khoản tiền của nhà đầu tư đều do công ty chứng khoán quản lý Điều này dẫn đến việc số tiền thặng dư được giữ lại tại các công ty chứng khoán trước khi được chuyển giao cho doanh nghiệp.
22 Đào Lê Minh (2002), Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội, tr.217
Theo Điều 32 Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007, quy chế và hoạt động của các công ty chứng khoán (CTCK) quy định rằng một lượng lớn tiền, bao gồm cả tiền đặt cọc của nhà đầu tư, có thể bị giữ lại tại các CTCK trong thời gian dài, có lúc lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng.
Theo quy định, thời gian thanh toán là T+3, có nghĩa là sau 3 ngày từ ngày giao dịch, tiền và chứng khoán sẽ đến tay chủ sở hữu Tuy nhiên, thực tế cho thấy có những trường hợp số tiền này vẫn bị giữ lại tại công ty chứng khoán (CTCK) trong vài tuần do sự cố trong quá trình lưu chuyển Sự chậm trễ này thường khiến nhà đầu tư (NĐT) bỏ lỡ cơ hội đầu tư quý giá, dẫn đến việc quyền lợi của họ bị giảm sút đáng kể.
Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 đã đóng vai trò quan trọng trong việc quy định rõ ràng và cụ thể hoạt động của các công ty chứng khoán (CTCK), đồng thời phân định trách nhiệm giữa CTCK và ngân hàng thương mại (NHTM) Quyết định này cũng góp phần bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư (NĐT), ngăn chặn việc xâm phạm hoặc lợi dụng từ phía các CTCK.
Các công ty chứng khoán (CTCK) không cần duy trì bộ máy quản lý tài khoản tiền của nhà đầu tư, giúp giảm bớt công việc liên quan đến đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực và công nghệ cho việc thu-chi, kiểm soát tiền giao dịch và đối chiếu tài khoản khách hàng Mặc dù công việc này có vẻ đơn giản, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro khi số lượng khách hàng giao dịch gia tăng Việc cắt giảm này rất quan trọng đối với CTCK, đặc biệt trong bối cảnh thị trường khó khăn hiện nay, khi các công ty phải tiết kiệm chi phí để duy trì hoạt động.
Khi nhà đầu tư (NĐT) mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại (NHTM), tài khoản này sẽ được coi là tài khoản thanh toán, giúp NĐT tận hưởng nhiều tiện ích như dịch vụ ATM, hạn mức vay, tín chấp, và các dịch vụ chuyển khoản Hơn nữa, tiền gửi của NĐT sẽ được đảm bảo an toàn hơn trong trường hợp các công ty chứng khoán (CTCK) gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh.
Việc tập trung tiền của nhà đầu tư vào các ngân hàng thương mại để quản lý mang lại nhiều lợi ích rõ ràng Tuy nhiên, quá trình áp dụng quy định này gặp phải nhiều khó khăn, trong đó vấn đề lớn nhất là sự tương thích của hệ thống cơ sở dữ liệu giữa các công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại.
Phần mềm mà các công ty chứng khoán (CTCK) đang sử dụng hiện nay rất đa dạng và không tương thích với phần mềm của các ngân hàng thương mại (NHTM), dẫn đến khó khăn và chi phí cao trong việc tích hợp Quyết định 27 chỉ cho phép các NHTM thực hiện thu hộ - chi hộ mà chưa quản lý tiền của khách hàng Tại một số CTCK, giao dịch tiền cho nhà đầu tư chỉ được thực hiện qua các quầy giao dịch của NHTM, hoặc CTCK đặt máy tính tại NHTM để thực hiện thủ tục giao dịch Tuy nhiên, phương pháp này còn khá thủ công, khiến khách hàng có thể gặp khó khăn trong việc đặt lệnh do sự chậm trễ trong hạch toán của kế toán ngân hàng, dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
Cũng theo qui định tại Điều 32 Quyết định 27/2007/QĐ-BTC, việc quản lý chứng khoán của NĐT cũng phải tuân thủ các qui định sau:
CTCK phải quản lý tách biệt chứng khoán của khách hàng với chứng khoán của CTCK;
CTCK có trách nhiệm gửi chứng khoán của khách hàng đến Trung tâm Lưu ký chứng khoán trong vòng một ngày làm việc kể từ khi nhận chứng khoán.
CTCK có trách nhiệm thông báo kịp thời, đầy đủ cho khách hàng về những quyền lợi phát sinh liên quan đến chứng khoán của khách hàng;
Việc gửi, rút và chuyển khoản chứng khoán được thực hiện dựa trên lệnh của khách hàng, đồng thời tuân thủ các quy định liên quan đến đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.
Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng chứng khoán của khách hàng để trục lợi, đặc biệt là bán khống mà không có sự đồng ý của khách hàng Trong bối cảnh TTCK Việt Nam đang suy giảm, việc này không chỉ gây thiệt hại cho khách hàng mà còn dẫn đến mâu thuẫn và tranh chấp không cần thiết Hơn nữa, hành động này có thể tạo ra hệ lụy dây chuyền, ảnh hưởng tiêu cực đến TTCK, làm giảm khả năng phục hồi khi cung tăng mạnh trong khi cầu đang suy yếu.
Nhận lệnh giao dịch
a) Nội dung lệnh giao dịch
Lệnh giao dịch là yêu cầu của khách hàng để CTCK thực hiện việc mua hoặc bán chứng khoán Nó thể hiện ý định của nhà đầu tư về việc mua, bán hoặc ngừng giao dịch một loại chứng khoán cụ thể Nhà đầu tư chịu trách nhiệm về kết quả giao dịch và chỉ có thể hủy lệnh nếu lệnh chưa khớp hoặc hủy một phần đối với lệnh đã khớp một phần.
Theo quy định hiện nay, các lệnh giao dịch chứng khoán bao gồm 24 :
Lệnh giới hạn là loại lệnh mua hoặc bán chứng khoán được đặt tại một mức giá cụ thể hoặc tốt hơn Lệnh này sẽ có hiệu lực từ khi được nhập vào hệ thống giao dịch cho đến khi kết thúc ngày giao dịch hoặc khi lệnh bị hủy.
Lệnh thị trường là lệnh mua chứng khoán với giá bán thấp nhất hoặc lệnh bán chứng khoán với giá mua cao nhất hiện có trên thị trường Tuy nhiên, hiện nay Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) chưa áp dụng loại lệnh này trong các giao dịch.
Lệnh giao dịch ATO (At The Opening) là lệnh đặt mua hoặc bán chứng khoán tại mức giá mở cửa Trong quá trình khớp lệnh, lệnh ATO được ưu tiên hơn lệnh giới hạn Lệnh này được nhập vào hệ thống giao dịch trong thời gian khớp lệnh định kỳ nhằm xác định giá mở cửa và sẽ tự động bị hủy nếu không được thực hiện hoặc không thực hiện hết sau thời điểm xác định giá mở cửa.
Lệnh giao dịch ATC (At the Close) là lệnh mua hoặc bán chứng khoán tại mức giá đóng cửa, ưu tiên hơn lệnh giới hạn trong quá trình khớp lệnh Lệnh này được nhập vào hệ thống trong thời gian khớp lệnh định kỳ để xác định giá đóng cửa và sẽ tự động hủy sau thời điểm này nếu chưa được thực hiện hoặc không thực hiện hết.
Lệnh hủy cho phép người dùng hủy toàn bộ hoặc một phần của lệnh chưa được thực hiện từ các lần khớp lệnh trước đó, trong các đợt khớp lệnh tiếp theo.
* Thông thường một lệnh giao dịch chứng khoán phải bao gồm các nội dung sau:
Lệnh mua, bán hoặc lệnh hủy: các CTCK thường dùng các mẫu lệnh có chữ
“mua”, “bán”, hoặc “hủy” được in sẵn trên phiếu lệnh để các NĐT không bị nhầm lẫn trong quá trình đặt lệnh
Để tránh nhầm lẫn trong quá trình nhập lệnh của nhân viên môi giới, việc mô tả rõ ràng và chính xác mã chứng khoán cần mua là rất quan trọng.
Khi thực hiện giao dịch chứng khoán, số lượng cần mua hoặc bán thường được ghi bằng con số Tuy nhiên, để tránh tranh chấp, nhiều công ty chứng khoán yêu cầu khách hàng ghi rõ số lượng chứng khoán bằng chữ trên phiếu lệnh.
Giá và loại lệnh giao dịch mà khách hàng yêu cầu, lệnh đó là lệnh giới hạn hay lệnh ATO, ATC
24 Điều 12 Quyết định 124/QĐ-SGDHCM ngày 9/10/2007 về việc ban hành qui chế giao dịch chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM
Khách hàng cần cung cấp số tài khoản, tên tài khoản và ngày giao dịch khi thực hiện lệnh Các công ty chứng khoán (CTCK) có thể cung cấp nhiều phương thức đặt lệnh khác nhau, tùy thuộc vào khả năng của từng công ty Thông thường, có bốn phương thức đặt lệnh chính mà khách hàng có thể lựa chọn.
Đặt lệnh tại sàn giao dịch thông qua việc viết vào các phiếu lệnh
Đặt lệnh qua điện thoại
Hình thức đặt lệnh tại sàn giao dịch, dù tốn thời gian của nhà đầu tư, lại đảm bảo an toàn và bảo mật cho thông tin cá nhân và giao dịch Hệ thống đặt lệnh qua internet cung cấp độ bảo mật cao với yêu cầu ba mật khẩu để thực hiện lệnh, cho phép nhà đầu tư quản lý tài khoản và theo dõi lệnh trực tiếp Trong khi đó, hình thức đặt lệnh qua điện thoại tiềm ẩn nhiều rủi ro do sự nhầm lẫn trong giao tiếp và thông tin, dẫn đến tranh chấp giữa khách hàng và nhân viên môi giới Mặc dù các cuộc gọi được ghi âm để giải quyết tranh chấp, nhà đầu tư nên nhận thức rõ các rủi ro liên quan và lựa chọn phương thức đặt lệnh phù hợp để đảm bảo quá trình đầu tư diễn ra thuận lợi.
Nhà đầu tư (NĐT) có thể đặt lệnh giao dịch tại công ty chứng khoán (CTCK) bằng nhiều phương thức khác nhau Họ có thể đến trực tiếp CTCK để viết phiếu lệnh, hoặc thực hiện qua điện thoại và Internet Tuy nhiên, sau khi đặt lệnh, NĐT vẫn cần ký vào phiếu lệnh để lưu giữ chứng từ gốc.
CTCK sẽ chuyển lệnh mua hoặc bán chứng khoán cho đại diện của công ty tại SGDCK, người này sẽ nhập lệnh vào hệ thống của sàn giao dịch Tuy nhiên, với việc SGDCK hiện đã áp dụng phương pháp giao dịch trực tuyến, bước này sẽ được lược bỏ.
Bước 3: SGDCK thực hiện khớp lệnh và thông báo kết quả giao dịch cho CTCK
Bước 4: CTCK thông báo kết quả giao dịch cho NĐT ngay sau khi khớp lệnh
Sau khi thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán, nhà đầu tư sẽ nhận được chứng khoán (đối với người mua) hoặc tiền (đối với người bán) vào tài khoản tại công ty chứng khoán sau 3 ngày làm việc (T+3) kể từ ngày giao dịch.
Phương thức nhập lệnh truyền thống tại SGDCK yêu cầu nhân viên CTCK mất khoảng 8 - 10 giây để đưa lệnh vào hệ thống, trong khi giao dịch trực tuyến chỉ cần 1 giây Việc áp dụng giao dịch trực tuyến đánh dấu một bước tiến quan trọng cho TTCK Việt Nam, mang lại nhiều lợi ích và sự thuận tiện, góp phần lớn vào sự phát triển của thị trường này.
Tốc độ truyền lệnh nhanh gấp nhiều lần so với hình thức giao dịch trước kia (trung bình 7 lệnh 1 giây)
Loại trừ được các lỗi nhầm lẫn do không phải nhập lệnh thủ công
Thực hiện các thao tác nhập lệnh, nhận kết quả, theo dõi thị trường, hủy sửa lệnh trực tuyến thông qua chương trình giao dịch trực tuyến
Loại trừ hiện tượng tắc lệnh, ùn lệnh mỗi khi thị trường có biến động đảo chiều
Để đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong giao dịch của nhà đầu tư, cần loại trừ hiện tượng phân biệt đối xử với lệnh của nhà đầu tư, ngăn chặn việc chèn lệnh hoặc can thiệp vào danh sách lệnh.
Phí môi giới
Phí môi giới chứng khoán, hay hoa hồng môi giới, là khoản tiền khách hàng phải trả cho các công ty chứng khoán (CTCK) sau khi yêu cầu thực hiện giao dịch Mức phí này được tính dựa trên tỷ lệ phần trăm của số tiền mua hoặc bán chứng khoán và chỉ phát sinh khi lệnh giao dịch thành công Thông thường, phí môi giới được thỏa thuận trong hợp đồng mở tài khoản hoặc theo thông báo của CTCK Trong giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán, có bốn loại phí mà CTCK có thể thu từ khách hàng: phí bảo lãnh phát hành, phí dịch vụ môi giới, phí tư vấn đầu tư và phí quản lý danh mục đầu tư Đối với phí dịch vụ môi giới, mức tối đa được phép thu là 0,75% giá trị giao dịch đối với cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, và 0,5% với trái phiếu, sau đó điều chỉnh xuống 0,5% cho cổ phiếu và 0,15% cho trái phiếu.
Trong giai đoạn đầu hình thành, thị trường chứng khoán Việt Nam và các công ty chứng khoán (CTCK) đối mặt với nhiều khó khăn, buộc Nhà nước phải ban hành nhiều chính sách ưu đãi, đặc biệt là về phí và lệ phí Theo chính sách này, CTCK được hưởng toàn bộ khoản phí môi giới từ hoạt động môi giới chứng khoán mà không phải nộp cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) Tuy nhiên, từ năm 2002, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 110/2002/TT-BTC, yêu cầu CTCK trích nộp 0,1% giá trị giao dịch đối với cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, cùng 0,075% đối với trái phiếu Mặc dù vậy, giai đoạn 2002-2006, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh mẽ, với số lượng giao dịch cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ còn khiêm tốn, dẫn đến việc Bộ Tài chính đã yêu cầu tạm hoãn thu một số loại phí.
25 Điều 2 thông tư số 01/2000/TT-UBCK hướng dẫn tạm thời chế độ thu phí đối với khách hàng của các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán
Theo Điều 1 của Thông tư 02/2000/TT-UBCK ngày 14/11/2000, các loại phí giao dịch do Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thu từ các thành viên đã được điều chỉnh giảm nhằm hỗ trợ thị trường trong giai đoạn suy giảm Cụ thể, phí giao dịch mà các Công ty Chứng khoán (CTCK) phải nộp cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã giảm từ 0,1% xuống 0,05% đối với cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, và từ 0,075% xuống 0,0075% đối với trái phiếu Đến năm 2008, mức phí này tiếp tục được điều chỉnh giảm xuống còn 0,03% đối với phí môi giới cổ phiếu, nhằm giúp các CTCK vượt qua những khó khăn trong bối cảnh kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam.