LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG 4
Căn cứ vào mục đích vay vốn
Cho vay mua nhà đất là khoản vay hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình trong việc mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở Cho vay mua đồ dùng sinh hoạt cung cấp tài chính cho việc chi tiêu vào các vật dụng gia đình và phương tiện đi lại như ô tô, xe máy, và thiết bị điện tử Bên cạnh đó, cho vay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng khác giúp tài trợ cho các nhu cầu cá nhân như du lịch, chữa bệnh và chi phí học tập.
Phân loại cho vay tiêu dùng dựa trên mục đích vay vốn là yếu tố quan trọng giúp các tổ chức tín dụng xác định hạn mức cho vay cho từng mục đích sử dụng Điều này không chỉ hỗ trợ trong việc xây dựng định hướng phát triển chính xác mà còn nâng cao khả năng kiểm soát khoản vay một cách hiệu quả hơn.
Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay
Cho vay tiêu dùng có thể được chia thành hai hình thức chính: cho vay có bảo đảm tài sản và cho vay không có bảo đảm tài sản Trong hình thức cho vay có bảo đảm, nghĩa vụ trả nợ được đảm bảo bằng tài sản của bên vay hoặc người thứ ba Ngược lại, cho vay không có bảo đảm tài sản không yêu cầu tài sản cụ thể nào để đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả, tạo sự linh hoạt cho khách hàng trong việc vay vốn.
Phân loại cho vay giúp các nhà làm luật đề xuất giải pháp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD), đặc biệt là hạn chế cho vay không có tài sản bảo đảm Đồng thời, phương pháp này cũng cho phép TCTD kiểm soát chặt chẽ hơn các khoản vay thông qua việc sử dụng tài sản đảm bảo, từ đó nâng cao khả năng thu hồi vốn đã cho vay.
9 Đại học Luật Hà Nội (2005), “giáo trình luật ngân hàng”, Nxb Công An Nhân Dân, (tr 131)
Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Cho vay tiêu dùng trả góp là hình thức cho vay cho phép người vay thanh toán nợ theo nhiều kỳ hạn nhất định, giúp giảm áp lực tài chính vào cuối kỳ Hình thức này mang lại lợi ích cho khách hàng, nhưng các tổ chức tín dụng thường chú ý đến một số yếu tố quan trọng khi cấp tín dụng.
Tài sản thường được tài trợ cho vay là những tài sản có giá trị lâu bền, nhằm đảm bảo rằng người vay vẫn nhận thức được giá trị của sản phẩm khi đến hạn trả nợ Nếu tổ chức tín dụng cho vay đối với những tài sản có thời gian sử dụng ngắn hơn thời hạn cho vay, người vay có thể mất động lực trả nợ khi tài sản không còn giá trị, dẫn đến việc trả nợ chỉ mang tính miễn cưỡng.
Khi vay vốn để mua sắm tài sản, các tổ chức tín dụng (TCTD) thường yêu cầu khách hàng phải trả trước một khoản tiền, thường từ 30% giá trị sản phẩm trở lên Điều này giúp hạn chế rủi ro cho TCTD, bởi nếu khách hàng không có khả năng trả nợ, TCTD có thể thu hồi tài sản để thu hồi nợ Tuy nhiên, giá trị tài sản thường giảm khi thu hồi, nên việc khách hàng trả trước một khoản tiền là rất cần thiết để giảm thiểu rủi ro cho các TCTD.
Chi phí tài trợ là khoản chi mà người vay phải trả cho các tổ chức tín dụng (TCTD) khi sử dụng vốn, chủ yếu là tiền lãi Các TCTD cần xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo chi phí này không chỉ đủ để trang trải chi phí vốn, chi phí hoạt động và rủi ro, mà còn phải mang lại lợi nhuận hợp lý cho họ.
Các TCTD sẽ điều chỉnh khoản thanh toán định kỳ của khách hàng sao cho phù hợp với thu nhập và chi tiêu của họ, đảm bảo rằng giá trị tài sản tài trợ không thấp hơn số tiền chưa thu hồi Kỳ hạn trả nợ cần linh hoạt nhưng không nên quá dài để tránh giảm giá trị tài sản và khó khăn trong thu hồi nợ Về cho vay tiêu dùng không trả góp, khách hàng chỉ thanh toán một lần khi đến hạn, thường áp dụng cho các khoản vay nhỏ và ngắn hạn Trong khi đó, cho vay tiêu dùng tuần hoàn cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc séc thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai, linh hoạt theo nhu cầu chi tiêu và thu nhập của họ.
Theo TS Hồ Diệu (2000) trong cuốn "Tín dụng ngân hàng" xuất bản bởi Nxb Thống Kê, khách hàng có thể vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn dựa trên hạn mức tín dụng mà các tổ chức tín dụng (TCTD) cấp cho họ.
Căn cứ theo nguồn gốc khoản nợ
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay mà các tổ chức tín dụng sử dụng các trung gian, như các công ty bán lẻ, để cung cấp vốn cho người tiêu dùng Hình thức này cho phép khách hàng vay tiền để mua sắm hàng hóa và dịch vụ mà không cần thanh toán ngay.
(1) Tổ chức tín dụng và các công ty bán lẻ thỏa thuận hoạt động mua bán nợ
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký hợp đồng mua bán hàng hóa chịu
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(4) Công ty bán lẻ giao bộ hóa đơn bán chịu cho các TCTD
(5) TCTD thanh toán tiền cho công ty bán lẻ
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho các TCTD
Hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp giữa các tổ chức tín dụng (TCTD) và đại lý bán lẻ thường được thực hiện thông qua hợp đồng mua bán nợ, trong đó đại lý cam kết cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho khách hàng Hợp đồng này quy định các điều kiện liên quan đến đối tượng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu Một số ưu điểm của hình thức cho vay này bao gồm việc tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc tiếp cận hàng hóa và dịch vụ mà không cần thanh toán ngay lập tức.
Các TCTD dễ dàng có đƣợc nhiều khách hàng vay tiêu dùng
Các TCTD giảm đƣợc chi phí trong cho vay
Tuy nhiên nó cũng có một số hạn chế nhƣ :
Các tổ chức tín dụng (TCTD) không trực tiếp tiếp xúc với người tiêu dùng khi thực hiện giao dịch bán chịu, dẫn đến thông tin về khách hàng thường không chính xác Điều này làm gia tăng mức độ rủi ro trong các giao dịch tài chính.
Thiếu sự kiểm soát của các TCTD khi các công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hóa
11 TS.Hồ Dệu, (2000), “tín dụng ngân hàng”, Nxb Thống Kê, (tr 262)
Người tiêu dùng có thể tiếp cận khoản vay tiêu dùng trực tiếp từ các tổ chức tín dụng (TCTD), nơi mà các TCTD sẽ trực tiếp giao tiếp, cho vay và thu hồi nợ từ khách hàng.
(1) Các TCTD và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay
(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ
(3) Các tổ chức tín dụng thanh toán tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(5) Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho các TCTD
So với cho vay tiêu dùng gián tiếp cho vay tiêu dùng trực tiếp có những ƣu điểm sau:
Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường mang lại chất lượng cao hơn nhờ vào việc hồ sơ vay vốn của khách hàng được thẩm định bởi đội ngũ nhân viên tín dụng giàu kinh nghiệm và chuyên môn tốt của tổ chức tín dụng Trong khi nhân viên tín dụng tập trung vào việc tạo ra các khoản vay chất lượng, nhân viên tại các công ty bán lẻ thường chỉ chú trọng vào việc bán hàng, dẫn đến quy trình xét duyệt có thể không đảm bảo.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn so với cho vay tiêu dùng gián tiếp,
TCTD có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, giúp họ hiểu rõ nhu cầu và mong muốn của khách hàng hơn Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc thỏa thuận các điều khoản, đảm bảo sự hài lòng cho cả hai bên.
Hoạt động cho vay tiêu dùng trực tiếp mặc dù phổ biến nhưng cũng gặp phải một số hạn chế, bao gồm chi phí cao và thời gian xử lý lâu do số lượng hồ sơ xin vay vốn tiêu dùng rất lớn.
Tóm lại, việc phân loại hoạt động cho vay tiêu dùng dựa trên các căn cứ khác nhau không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu lý luận mà còn đóng góp tích cực cho thực tiễn Kết quả từ việc phân loại này giúp nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển các sản phẩm tài chính phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng.
Người tiêu dùng có thể phân loại hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) để các nhà làm luật xây dựng quy chế cho vay phù hợp với thực tiễn của từng TCTD Điều này cần dựa trên các chính sách pháp luật tích cực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động cho vay, đồng thời hạn chế rủi ro có thể phát sinh Dựa vào kết quả phân loại, các TCTD cũng có thể tự xây dựng các chiến lược và chính sách kinh doanh mang tính khả thi và hiệu quả cao.
1.1.5 Ý nghĩa hoạt động cho vay tiêu dùng
Những tác động tích cực
Hoạt động cho vay tiêu dùng tuy mới chỉ phát triển trong những năm gần đây ở
Cho vay tiêu dùng tại Việt Nam mang lại nhiều lợi ích rõ rệt cho các bên liên quan, bao gồm ngân hàng, công ty tài chính, người tiêu dùng và các nhà bán lẻ Dịch vụ này không chỉ hỗ trợ nhu cầu tài chính của cá nhân mà còn đóng góp quan trọng vào sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế.
Cho vay tiêu dùng đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích sự phát triển kinh tế, khi các tổ chức tín dụng mở rộng hoạt động cho vay sẽ làm tăng cầu hàng hóa và dịch vụ Sự gia tăng cầu sẽ thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng cung ứng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng và tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp Lợi nhuận từ việc bán hàng sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, từ đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững.
Cho vay tiêu dùng không chỉ tạo ra nhu cầu hiện tại mà còn thúc đẩy sản xuất với quy mô tăng nhanh và chất lượng ngày càng phong phú Điều này giúp quá trình sản xuất, trao đổi và phân phối diễn ra nhanh chóng và hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng kinh tế Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, cho vay tiêu dùng trở thành công cụ kích cầu quan trọng, thúc đẩy tiêu dùng và tạo điều kiện cho sự phát triển sản xuất.
Cho vay tiêu dùng không chỉ cải thiện đời sống hiện tại mà còn tạo điều kiện cho tương lai Nó mang lại cơ hội cho người vay hưởng các tiện ích ngay lập tức, đặc biệt là trong các trường hợp cần thiết như chi phí giáo dục và y tế, khi tài chính chưa đủ Đặc biệt, đối với thế hệ trẻ và những người có thu nhập thấp, cho vay tiêu dùng giúp họ thực hiện các nhu cầu chi tiêu lớn như mua nhà, ô tô mà không cần chờ đợi đến khi có đủ tiền.
Cho vay tiêu dùng giúp giới trẻ có cuộc sống ổn định ngay từ đầu, cho phép họ mua sắm các vật dụng cần thiết qua hình thức trả góp Điều này tạo động lực cho họ làm việc chăm chỉ, tiết kiệm để trả nợ và nuôi dạy con cái Ví dụ, một cặp vợ chồng trẻ có thu nhập khoảng 12 triệu đồng/tháng từ công việc tại công ty nước ngoài sẽ gặp khó khăn trong việc tích góp đủ tiền mua căn hộ chung cư trị giá 800 triệu đồng, do phải chi trả cho các khoản chi tiêu hàng ngày và tiền thuê nhà Thêm vào đó, khi họ tích góp đủ số tiền, giá căn hộ có thể đã tăng lên nhiều lần Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của cho vay tiêu dùng, họ có thể dễ dàng vay đủ số tiền cần thiết để sở hữu căn hộ.
Cặp vợ chồng này đã đầu tư 800 triệu đồng để sở hữu căn hộ, với khoản trả góp hàng tháng khoảng 8,5 triệu đồng trong 10 năm, tạo điều kiện cho họ có chỗ ở ổn định và yên tâm nuôi dạy con cái Xu hướng du học để nâng cao trình độ ngày càng phổ biến, nhưng không phải ai cũng có khả năng tài chính hoặc nhận học bổng toàn phần Sản phẩm vay du học giúp thanh toán chi phí học tập và sinh hoạt, cho phép người vay hoàn thành việc học và xây dựng sự nghiệp, đồng thời góp phần phát triển nguồn nhân lực cho xã hội Đối với những người có thu nhập cao, nhu cầu về căn hộ cao cấp và xe ô tô đắt tiền không chỉ đáp ứng nhu cầu sống tiện nghi mà còn thể hiện khả năng tài chính, và họ thường được xem xét cho vay với hạn mức cao nhờ vào khả năng trả nợ ổn định.
12 Tiến sỹ Nguyễn Đắc Hưng (2007), “cạnh tranh phát triển thị trường tín dụng tiêu dùng”, tạp chí ngân hàng,(số
Cho vay tiêu dùng có vai trò quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh của các
Tổ chức tín dụng (TCTD) cần chú trọng đến việc phục vụ cá nhân trong hoạt động cho vay tiêu dùng, vì đây là nhóm đối tượng đông đảo trong xã hội Để đáp ứng hiệu quả nhu cầu của họ, TCTD phải đảm bảo tính chuyên môn hóa cao trong các dịch vụ cho vay và nâng cao chất lượng phục vụ.
Cho vay tiêu dùng không chỉ giúp các tổ chức tín dụng (TCTD) mở rộng hoạt động kinh doanh và thị phần trên thị trường tài chính, mà còn tối ưu hóa việc sử dụng nguồn vốn huy động trong xã hội Điều này không chỉ nâng cao thu nhập cho các TCTD mà còn giúp phân tán rủi ro hiệu quả.
Những tác động tiêu cực
Cho vay tiêu dùng đóng vai trò quan trọng trong việc kích cầu tiêu dùng và thúc đẩy phát triển kinh tế, giúp cải thiện đời sống cho những người có nhu cầu mua sắm nhưng chưa đủ khả năng tài chính Tuy nhiên, việc cho vay tiêu dùng cũng tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt là khi các tổ chức tín dụng thực hiện chính sách cho vay quá “cởi mở”, có thể dẫn đến lạm phát Khi tiền được đưa trực tiếp vào lưu thông, nếu lạm phát gia tăng quá mức, các cơ quan chức năng sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát, từ đó gây hại cho nền kinh tế.
Số tiền cho vay tiêu dùng ngày càng lớn với lãi suất cao, mang lại lợi nhuận cao cho các tổ chức tín dụng (TCTD), dẫn đến việc nới lỏng điều kiện cho vay Điều này khiến cho việc kiểm soát mục đích sử dụng vốn trở nên khó khăn, dẫn đến tình trạng vay tiêu dùng bị sử dụng cho đầu tư vào bất động sản và chứng khoán thay vì kích thích nhu cầu tiêu dùng thực sự Hơn nữa, những người cần vay cho nhu cầu tiêu dùng thường không tiếp cận được nguồn vốn, trong khi những người có thu nhập cao lại dễ dàng vay tiền để đầu tư, gây bất bình đẳng trong việc tiếp cận tài chính.
Các TCTD đang tích cực cho vay tiêu dùng với lãi suất thỏa thuận, dẫn đến việc lãi suất tăng cao Hành động này nhằm tìm kiếm lợi nhuận đã làm giảm nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam phát triển chậm, nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên cấp thiết.
Trong bài viết của TS Nguyễn Mạnh Hùng (2010) về "tính hai mặt của tăng trưởng tín dụng tiêu dùng", được đăng trên tạp chí ngân hàng (số 6), tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của tín dụng tiêu dùng trong việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, bảo trợ sản xuất kinh doanh và hỗ trợ các doanh nghiệp.
Tín dụng tiêu dùng có thể kích thích nhu cầu trong nước, nhưng nếu năng lực sản xuất không theo kịp, nó sẽ dẫn đến việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu Khi cầu hàng hóa tiêu dùng tăng mà sản xuất nội địa không phát triển tương ứng, điều này không chỉ không mang lại hiệu quả kinh tế cho nền kinh tế nội địa mà còn tạo ra thói quen "sính hàng ngoại" trong người tiêu dùng Điều này trở thành một nguy cơ nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế trong nước.
Vay tiêu dùng không kiểm soát có thể dẫn đến lạm chi và chi tiêu cho những hàng hóa, dịch vụ không cần thiết, làm tăng gánh nặng nợ nần Khi tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán khoản nợ do nhiều yếu tố tác động, người vay có thể rơi vào tình trạng phá sản Kết quả là đời sống của người vay không những không được cải thiện như mong muốn mà còn rơi vào khó khăn hơn.
Cho vay tiêu dùng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, thúc đẩy hoạt động kinh doanh và nâng cao đời sống người dân Việc cung cấp các khoản vay tiêu dùng không chỉ giúp cá nhân đáp ứng nhu cầu chi tiêu mà còn kích thích tiêu dùng, từ đó góp phần vào sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
Tín dụng tiêu dùng (TCTD) không chỉ góp phần nâng cao đời sống người dân mà còn tiềm ẩn những mặt trái đáng chú ý Để phát huy những lợi ích tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của hoạt động cho vay tiêu dùng, cần thiết phải xây dựng hệ thống chính sách pháp luật phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.
1.2 PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
1.2.1 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là một hình thức cho vay đặc thù của các tổ chức tín dụng, do đó, pháp luật về cho vay tiêu dùng bao gồm cả quy định chung về cho vay và các văn bản liên quan cụ thể đến hoạt động này.
Các văn bản pháp luật quan trọng điều chỉnh hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng bao gồm Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, cùng với các quyết định liên quan.
1627/2001/QĐ-NHNN về quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng; Quyết định
127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 về sửa đổi bổ sung Quyết định 1627; Quyết
14 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH 12 ngày 16/06/2010 của Quốc Hội
15 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH 12 ngày 16/06/2010 của Quốc hội định 783/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005 về sửa đổi, bổ sung khoản 6 điều 1 Quyết định
Các quy định tại Nghị định 127/2005 và các văn bản pháp luật liên quan có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động cho vay tiêu dùng Tuy nhiên, hiện tại chưa có điều khoản nào quy định cụ thể về cho vay tiêu dùng, mà pháp luật chỉ cho phép các tổ chức tín dụng tự xây dựng quy định riêng cho loại hình cho vay đặc thù này, dựa trên các quy định chung về hoạt động cho vay.
Luật NHNN và luật các TCTD 2010 quy định các điều kiện cần thiết để các TCTD tham gia hoạt động cấp tín dụng, nhằm đảm bảo an toàn cho nguồn vốn khi cấp tín dụng cho khách hàng Điều 126 trong luật này nêu rõ những yêu cầu cụ thể liên quan đến hoạt động này.
Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) quy định các trường hợp không được cho vay nhằm ngăn chặn việc cho vay nội bộ phục vụ mục đích trục lợi Điều này rất cần thiết do bản chất của hoạt động tài chính-ngân hàng là vay để cho vay, từ đó hạn chế tối đa khả năng thành lập TCTD với mục đích lừa đảo Ngoài nghiệp vụ cho vay, TCTD còn thực hiện huy động vốn, nhưng việc cho vay cho những đối tượng có lợi ích gắn liền với TCTD có thể dẫn đến hành vi chiếm đoạt tài sản Điều này cho thấy cho vay nội bộ tạo cơ hội cho các đối tượng liên quan, đặc biệt là chủ sở hữu và nhân viên quản lý cao cấp, thực hiện hành vi trái pháp luật, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của các chủ thể khác.
Pháp luật cấm các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc và người thân của họ vay vốn từ tổ chức tín dụng (TCTD) Quy định này nhằm ngăn chặn việc lợi dụng kẽ hở pháp luật để vay vốn dưới danh nghĩa người thân, đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD Do đó, khi cho vay tiêu dùng, các TCTD cần tuân thủ nghiêm ngặt những quy định này.
Trên cơ sở những quy định chung của Luật các TCTD quy chế cho vay
Nghị định 1627/2001/QĐ-NHNN quy định cụ thể về hoạt động cho vay, bao gồm nguyên tắc và điều kiện vay vốn cũng như các nội dung cơ bản trong hợp đồng tín dụng Dựa trên những quy định này, các tổ chức tín dụng sẽ thực hiện việc cho vay vốn tiêu dùng.
16 Xem khoản 1 điều 126 Luật các TCTD năm 2010 dựa vào đặc thù của tổ chức mình mà không trái với những điều kiện của quy chế cho vay
Các tổ chức tín dụng
Chủ thể cung ứng vốn cho bên đi vay phải đáp ứng các điều kiện cụ thể theo pháp luật và quy định của tổ chức tín dụng (TCTD) Theo Luật các TCTD năm 2010, để thực hiện hoạt động cho vay, TCTD cần có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp, cùng với điều lệ được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt.
Theo khoản 1 điều 8 và điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng 2010, để hoạt động hợp pháp, tổ chức tín dụng cần có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp và một người đại diện có đủ năng lực cùng thẩm quyền để ký kết hợp đồng tín dụng với khách hàng.
Những quy định này là cơ sở quan trọng để đánh giá khả năng hoạt động kinh doanh tiền tệ của các TCTD Chúng không chỉ giúp loại bỏ những TCTD không đủ tiêu chuẩn trên thị trường tài chính mà còn góp phần vào việc lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng Hơn nữa, khi các TCTD đáp ứng đủ các điều kiện này, điều đó sẽ bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Bên đi vay
Chủ thể sử dụng vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng chưa đủ khả năng thanh toán hiện tại đang gia tăng, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế phát triển mạnh mẽ Những nhu cầu mới không chỉ bao gồm các vấn đề vật chất như ăn, mặc, ở và phương tiện đi lại, mà còn mở rộng ra các dịch vụ như du lịch, chữa bệnh và du học Sự gia tăng này đã tạo điều kiện cho hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển, với các tổ chức tín dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu hàng hóa mà còn cả nhu cầu dịch vụ Ví dụ, một số ngân hàng như Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) cung cấp sản phẩm cho vay hỗ trợ học tập, góp phần vào việc thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng đa dạng của người dân.
ViệtinBank và SCB đang triển khai mạnh mẽ sản phẩm cho vay du lịch, thu hút sự quan tâm của nhiều khách hàng Để được vay vốn từ các tổ chức tín dụng, bên vay cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện do các ngân hàng quy định.
Hoạt động cho vay tiêu dùng hiện nay vẫn tuân theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD) dành cho khách hàng Điều kiện vay vốn của cá nhân và hộ gia đình phụ thuộc vào đặc thù của từng tổ chức và khoản vay cụ thể Tuy nhiên, bên vay cần đáp ứng các điều kiện chung theo pháp luật, bao gồm: cá nhân và chủ hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp; có khả năng tài chính đảm bảo khả năng trả nợ; có dự án đầu tư hoặc phương án phục vụ đời sống phù hợp với quy định pháp luật; và thực hiện đầy đủ các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
18 Xem điều 7 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về quy chế cho vay tổ chức tín dụng dành cho khách hàng
Chủ thể thứ ba
Trong cho vay tiêu dùng, người đi vay không luôn nhận tiền trực tiếp từ tổ chức tín dụng (TCTD), mà có thể nhận hàng hóa hoặc dịch vụ từ bên thứ ba, sau đó TCTD sẽ thanh toán cho bên cung ứng đó Do đó, trong mối quan hệ tín dụng tiêu dùng, ngoài TCTD và người đi vay, còn có sự tham gia của bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ, nhưng không phải trong mọi trường hợp Gần đây, các bên này không chỉ liên kết với TCTD để cung cấp hàng hóa như ô tô, xe máy, hay đồ điện tử, mà còn mở rộng sang cung ứng dịch vụ như du lịch, chữa bệnh, và đặc biệt là chi phí học hành Mặc dù không phải là chủ thể chính trong quan hệ cho vay tiêu dùng, nhưng pháp luật tài chính ngân hàng không quy định cụ thể về điều kiện tham gia của họ Do đó, tùy theo lĩnh vực hoạt động, các bên này cần đáp ứng các điều kiện pháp lý riêng, với điều kiện bắt buộc là không cung ứng hàng hóa, dịch vụ nằm trong danh mục cấm của pháp luật.
1.2.3 Quyền và nghĩa vụ cơ bản của chủ thể tham gia quan hệ cho vay tiêu dùng
Khi quan hệ cho vay được thiết lập, các bên sẽ ký kết hợp đồng để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mình Hợp đồng tín dụng quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia, giúp bảo vệ lợi ích và đảm bảo thực hiện đúng cam kết.
Hợp đồng thương mại (HĐTD) là các quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy định bởi pháp luật hoặc đã được các bên thỏa thuận trước trong hợp đồng, nhằm đáp ứng lợi ích kinh tế của các bên tham gia giao dịch.
Các quyền và nghĩa vụ pháp lý được thiết lập dựa trên thỏa thuận giữa các bên, phản ánh hành vi pháp lý mà mỗi bên thực hiện Do có tư cách pháp lý khác nhau, các bên tham gia quan hệ này sẽ có quyền và nghĩa vụ khác nhau Theo quy định trong quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng, các điều khoản này được cụ thể hóa để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp cho các bên liên quan.
1627/2001/QĐ-NHNN quyền và nghĩa vụ các bên đƣợc ghi nhận nhƣ sau 19 :
Quyền và nghĩa vụ của TCTD
Tổ chức tín dụng (TCTD) cung cấp vốn cho khách hàng vay với mục đích thu lãi, và số tiền cho vay này được huy động từ các tổ chức, cá nhân khác Hoạt động cho vay của TCTD mang tính chất đặc thù, phản ánh sự kết nối giữa nguồn vốn huy động và nhu cầu vay mượn của khách hàng.
Điều 24 và 25 trong Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN quy định về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng, nhấn mạnh các quyền quan trọng mà TCTD cần có để bảo toàn nguồn vốn Những quy định này nhằm đảm bảo an toàn tài chính và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay.
Tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án và phương án khả thi phục vụ đời sống, cũng như khả năng tài chính của họ trước khi đưa ra quyết định cho vay.
Trong hoạt động cho vay, việc cung cấp thông tin là bước đầu tiên và quan trọng, đóng vai trò là cơ sở để tổ chức tín dụng (TCTD) đánh giá khả năng cho khách hàng vay.
Thông tin mà khách hàng cung cấp không chỉ phản ánh mục đích sử dụng vốn mà còn thể hiện khả năng hoàn trả nợ, từ đó ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng Để đảm bảo an toàn cho nguồn vốn, tổ chức tín dụng (TCTD) có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu cần thiết trước khi giải ngân Sau khi kiểm tra tính chính xác của hồ sơ và thẩm định dự án vay, TCTD có thể từ chối yêu cầu vay nếu khách hàng không đủ điều kiện, dự án không hiệu quả, hoặc không phù hợp với quy định pháp luật, hoặc nếu TCTD không có đủ nguồn vốn để cho vay.
Quyền kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng
Hoạt động tín dụng chỉ đạt hiệu quả khi nguồn vốn của TCTD đi đúng hướng
Hoạt động kinh doanh tiền tệ của tổ chức tín dụng (TCTD) chủ yếu là vay để cho vay, do đó hiệu quả của hoạt động này phụ thuộc vào bên đi vay Việc bên đi vay thanh toán nợ đúng hạn giúp TCTD tối ưu hóa việc sử dụng nguồn vốn tín dụng và nhanh chóng quay vòng vốn nhàn rỗi Để ngăn chặn việc sử dụng vốn sai mục đích, TCTD cần có quyền kiểm tra và giám sát hoạt động sử dụng vốn của khách hàng, đồng thời đôn đốc họ thanh toán nợ đúng hạn.
Nếu Tổ chức tín dụng (TCTD) phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai lệch hoặc vi phạm hợp đồng tín dụng, TCTD có quyền chấm dứt hợp đồng cho vay và thu hồi nợ trước hạn.
Nhƣ trên đã phân tích tiền TCTD cho khách hàng vay cũng là khoản tiền mà
TCTD cần vay vốn từ khách hàng khác, vì vậy việc đảm bảo an toàn nguồn vốn là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động cho vay Nếu khách hàng cung cấp tài liệu không đầy đủ hoặc không chính xác, điều này có thể ảnh hưởng đến quyết định cho vay và rủi ro tài chính của tổ chức.
Theo Giáo trình Luật ngân hàng (2010) của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, nếu bên vay không tuân thủ các quy định trong hợp đồng đã thỏa thuận trước khi vay, điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nợ và mục đích sử dụng vốn Để bảo vệ nguồn vốn, tổ chức tín dụng (TCTD) có quyền chấm dứt việc cho vay và thu hồi nợ, ngay cả khi chưa đến hạn thanh toán.
Khi khách hàng không thanh toán nợ đúng hạn, nếu không có thỏa thuận khác, tổ chức tín dụng (TCTD) có quyền xử lý tài sản bảo đảm khoản vay theo hợp đồng đã ký kết để thu hồi nợ theo quy định pháp luật.
Tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo bên vay sử dụng vốn hiệu quả và thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn Điều này khiến các tổ chức tín dụng (TCTD) xem tài sản bảo đảm là tiêu chí quan trọng trong quyết định cấp tín dụng Khi khách hàng không thể trả nợ, TCTD phải có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn, nhằm bảo vệ an toàn cho hoạt động của mình, đặc biệt trong bối cảnh thị trường tài chính chưa hoàn hảo.
Các tổ chức tín dụng (TCTD) có quyền xem xét và thực hiện miễn, giảm lãi suất vốn vay, gia hạn nợ cũng như điều chỉnh kỳ hạn trả nợ Ngoài ra, TCTD còn có quyền khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tín dụng (TCTD) không chỉ có quyền thực hiện pháp luật mà còn phải tuân thủ một số nghĩa vụ để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong quan hệ cho vay tiêu dùng Cụ thể, TCTD phải thực hiện đúng các thỏa thuận đã ký trong hợp đồng tín dụng và lưu giữ hồ sơ theo quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của bên đi vay
Trong cho vay tiêu dùng, cá nhân và hộ gia đình là những đối tượng trực tiếp nhận vốn từ các tổ chức tín dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu Pháp luật cũng quy định rõ ràng các quyền lợi cụ thể cho những chủ thể này.
Quyền từ chối các yêu cầu của TCTD không đúng với các thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng
Theo quy định của pháp luật dân sự, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Đây là cơ sở pháp lý quan trọng mà các bên đã thống nhất, do đó mỗi bên chỉ có quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ đã ghi trong hợp đồng, nhằm đảm bảo tuân thủ các thỏa thuận đã ký kết.
21 Xem Điều 388 Bộ luật dân sự 2005
Cá nhân, hộ gia đình khi đi vay còn được quyền khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định của pháp luật
Quyền lợi của bên đi vay được xác định dựa trên nguyên tắc thực hiện hợp đồng, yêu cầu các bên phải tuân thủ đúng các điều khoản về đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn và phương thức Khi các tổ chức tín dụng vi phạm các điều khoản đã thỏa thuận, bên vay có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình, từ đó đảm bảo tính tôn trọng trong các giao dịch dân sự và góp phần nâng cao tính minh bạch trong các hợp đồng.
Khi vay vốn tiêu dùng, cá nhân và hộ gia đình cần thực hiện các nghĩa vụ để bảo đảm an toàn nguồn vốn cho tổ chức tín dụng Đầu tiên, họ phải cung cấp đầy đủ và trung thực thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nhiệm về tính chính xác của chúng Thứ hai, việc sử dụng vốn vay phải đúng mục đích và theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng Thứ ba, họ cần thực hiện việc trả nợ gốc và lãi đúng hạn như đã cam kết Cuối cùng, nếu không thực hiện đúng các thỏa thuận về trả nợ, họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Các nghĩa vụ của khách hàng vay được xác định là quyền lợi theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) Điều này tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo sự tôn trọng quyền và lợi ích giữa các bên, đồng thời là căn cứ cho cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp khi phát sinh.
Quyền và nghĩa vụ của chủ thể trung gian
Trong quan hệ cho vay tiêu dùng, có thể có sự tham gia của bên cung ứng hàng hóa hoặc dịch vụ, tùy thuộc vào lĩnh vực hoạt động Pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ khác nhau cho chủ thể này, đồng thời các bên có thể thỏa thuận với tổ chức tín dụng (TCTD) về việc mua bán nợ để xác định rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
Theo quy định chung về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, các bên có quyền yêu cầu TCTD hoặc bên vay thanh toán đầy đủ khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ Nếu có sự vi phạm từ một trong các bên, bên còn lại có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật dân sự liên quan đến việc xác lập và thực hiện hợp đồng.
1.2.4 Quy trình cho vay tiêu dùng
22 Xem khoản 1 Điều 412 Bộ luật dân sự 2005
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động cho vay tiêu dùng, do đó quy trình cho vay chung của tổ chức tín dụng (TCTD) cũng áp dụng cho cho vay tiêu dùng Theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, quy trình cho vay tiêu dùng cần tuân theo những bước quan trọng sau đây:
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng cần gửi giấy đề nghị vay vốn cùng với các tài liệu chứng minh đủ điều kiện vay vốn đến tổ chức tín dụng.
Trong hoạt động cho vay tiêu dùng, các tổ chức tín dụng (TCTD) yêu cầu khách hàng cung cấp các giấy tờ khác nhau tùy thuộc vào từng loại vay Khi vay vốn, khách hàng thường nhận được sự tư vấn từ nhân viên tín dụng về các giấy tờ cần thiết để gửi cho TCTD Những giấy tờ này đóng vai trò quan trọng trong việc TCTD xem xét và quyết định có cho khách hàng vay hay không.
Khách hàng vay tiêu dùng tại các TCTD cần cung cấp giấy tờ chứng minh đủ điều kiện vay vốn, bao gồm: có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; có vốn tự có tối thiểu 20% trong tổng nhu cầu vốn; và mục đích vay vốn phải hợp pháp, kèm theo dự án hoặc phương án phục vụ đời sống rõ ràng và khả thi.
Khách hàng có nhu cầu vay vốn để sửa chữa nhà cần chuẩn bị bảng dự toán chi phí sửa chữa nhà cụ thể, do chính mình lập, cùng với giấy phép sửa chữa nhà được xác nhận bởi UBND phường nơi có tài sản.
Khách hàng muốn vay vốn xây nhà cần chuẩn bị bảng dự toán xây dựng và bản vẽ thiết kế do công ty thi công thực hiện Bên cạnh đó, cần có giấy phép xây dựng do Ủy ban Nhân dân quận cấp, và nếu không tiến hành xây dựng trong thời hạn cho phép, phải bổ sung giấy gia hạn giấy phép xây dựng.
Khách hàng vay vốn để mua nhà cần cam kết với các tổ chức tín dụng (TCTD) rằng sau khi hoàn tất giao dịch, họ sẽ tiến hành đăng bộ giấy tờ nhà sang tên Sau khi hoàn tất việc đăng bộ, khách hàng phải cung cấp bản sao chứng thực cho TCTD để lưu trữ hồ sơ vay vốn.
Khách hàng vay vốn để mua sắm dụng cụ gia đình cần cung cấp hóa đơn chứng từ để chứng minh mục đích sử dụng Họ cũng phải có giấy tờ chứng minh khả năng tài chính, bao gồm thu nhập ổn định của các thành viên trong gia đình trong suốt thời gian vay Ngoài ra, khách hàng không được có nhóm nợ từ 3 đến 5 tại các TCTD khác khi xin vay Nếu có tài sản bảo đảm, khách hàng cần chứng minh rằng tài sản này không liên quan đến tranh chấp hay vấn đề pháp lý khác Đối với vay tín chấp, cần có hợp đồng liên kết giữa TCTD và cơ quan, tổ chức nơi nhân viên xin vay, thường là các cơ quan nhà nước như trường học, UBND hay Tòa án, với điều kiện các cơ quan này đảm bảo cho nhân viên của mình.
TCTD xác định mức vốn cho vay dựa trên nhu cầu tài chính và mức lương của từng cá nhân Nếu những người vay không thể thanh toán nợ, cơ quan chủ quản sẽ có trách nhiệm trả nợ thay cho họ.
Bước hai: Thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng
Hoạt động thẩm định và kiểm tra giám sát trong cho vay là những nhiệm vụ chuyên môn quan trọng của các TCTD, nhằm đánh giá rủi ro và khả năng trả nợ của khách hàng Hoạt động này giúp TCTD điều chỉnh kịp thời quá trình sử dụng vốn vay, đảm bảo khả năng thu hồi vốn cao nhất Kết quả thẩm định quyết định việc chấp nhận hay từ chối nhu cầu vay vốn của khách hàng, do đó quy trình xét duyệt tín dụng cần phân định rõ trách nhiệm giữa thẩm định và quyết định cấp tín dụng Đặc biệt, cho vay tiêu dùng có rủi ro cao hơn, yêu cầu thông tin từ khách hàng phải chính xác, vì vậy cán bộ thẩm định cần có trình độ chuyên môn cao để thực hiện công việc này hiệu quả.
Hoạt động thẩm định, kiểm tra và giám sát vốn vay có tính chất đặc thù và phụ thuộc vào từng tổ chức tín dụng (TCTD), do đó pháp luật không thể đưa ra quy định chung cho toàn hệ thống Hiện nay, không có quy trình thẩm định và giám sát vốn vay bắt buộc, mỗi TCTD tự xây dựng quy trình riêng và gửi cho Thanh tra để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý vốn vay của khách hàng.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm tra và thanh tra tính tuân thủ pháp luật trong hoạt động của từng tổ chức tín dụng (TCTD) dựa trên quy định 24 Điều này đảm bảo rằng các TCTD hoạt động đúng theo quy định pháp luật và góp phần nâng cao tính minh bạch trong ngành ngân hàng.
23 Xem khoản 2 điều 94 Luật các TCTD 2010
Khoản 2 mục 5 của Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN đã sửa đổi và bổ sung một số điều trong Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, nhằm mở rộng tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các TCTD Điều này phản ánh thực tế rằng TCTD cũng là một chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế Ngoài ra, việc quy định quy trình kiểm tra và giám sát vốn vay mang tính chuyên môn nghiệp vụ, do đó, việc giao thẩm quyền cho TCTD tự đưa ra quy định riêng là phù hợp hơn so với các quy định hành chính do Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Bước thứ ba: Ký kết hợp đồng với khách hàng
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Lãi suất trả nợ trước hạn
Khác với cho vay sản xuất kinh doanh, người vay tiêu dùng thường gặp khó khăn trong việc xác định thời hạn trả nợ do thu nhập từ tiền lương không cố định Điều này dẫn đến việc thời gian trả nợ thực tế không khớp với hợp đồng tín dụng Nhiều người vay tiêu dùng sau một thời gian có thêm nguồn thu nhập từ gia đình hoặc hoạt động kinh doanh, thường có xu hướng trả nợ trước hạn để yên tâm, mặc dù chưa đến hạn Tuy nhiên, khi lãi suất thị trường tăng, các tổ chức tín dụng cũng điều chỉnh lãi suất cho vay, khiến người vay phải tìm cách xoay xở tiền để trả nợ, và họ có thể phải chịu thêm phí thanh toán nợ trước hạn.
Phí phạt nợ trước hạn thực chất là lãi suất do các tổ chức tín dụng (TCTD) áp dụng khi khách hàng vi phạm thời hạn trả nợ đã cam kết Quy định này nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ của các TCTD, giúp họ chủ động trong việc sử dụng và phân bổ vốn Tuy nhiên, những quy định không rõ ràng của pháp luật lại gây khó khăn cho người vay Thực tế, khi cho vay, các TCTD thường quy định rằng nếu bên vay trả nợ trước hạn, họ sẽ phải trả một khoản phí theo quy định của ngân hàng, nhưng mức phí cụ thể vẫn chưa được làm rõ.
TCTD không quy định rõ mức phí áp dụng cho từng khách hàng, dẫn đến việc khách hàng phải nộp phí phạt khi trả nợ trước hạn dù hợp đồng tín dụng không có điều khoản này Khi khách hàng thắc mắc, nhân viên tín dụng thường dẫn chiếu đến điều 478 Bộ luật dân sự về quyền trả nợ trước hạn, yêu cầu khách hàng phải trả toàn bộ lãi suất theo kỳ hạn Điều này gây bất lợi cho khách hàng, bởi họ thường không hiểu rõ các quy định pháp luật và dễ bị TCTD lợi dụng Do đó, cần điều chỉnh điều khoản này để quy định rõ rằng bên vay có quyền trả nợ trước hạn mà không phải chịu phí phạt, trừ khi có thỏa thuận khác trong hợp đồng.
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) do các tổ chức tín dụng (TCTD) cung cấp thường có hình thức giống như hợp đồng mẫu, nhưng lại chứa các điều khoản có lợi cho TCTD Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, nếu hợp đồng mẫu có điều khoản không rõ ràng, bên cung cấp hợp đồng phải chịu bất lợi khi giải thích Ngoài ra, các điều khoản miễn trách nhiệm hoặc tăng trách nhiệm của bên cung cấp hợp đồng sẽ không có hiệu lực trừ khi có thỏa thuận khác Tuy nhiên, thực tế HĐTD mà TCTD ký kết với khách hàng không phải là hợp đồng mẫu mà chỉ là bản dự thảo với các quy định của TCTD, có thể thay đổi theo thỏa thuận giữa hai bên.
Theo quy định pháp luật, hợp đồng theo mẫu là hợp đồng mà một bên đưa ra các điều khoản để bên kia chấp nhận trong một khoảng thời gian hợp lý Nếu bên được đề nghị chấp nhận, điều đó có nghĩa là họ đồng ý với toàn bộ nội dung hợp đồng Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có sự giải thích rõ ràng từ cơ quan nhà nước về việc các hợp đồng tín dụng do tổ chức tín dụng cung cấp có phải là hợp đồng mẫu hay không Do đó, cần có quy định pháp luật cụ thể để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, tránh tình trạng người vay phải chịu thiệt thòi.