LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH VÀ QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VỀ GIẢM TRỪ
Khái niệm giảm trừ gia cảnh
Luật thuế TNCN đặc biệt chú trọng đến hoàn cảnh cá nhân trong việc điều chỉnh thuế Do đó, một số khoản chi của cá nhân cần được xem xét để giảm trừ khi xác định thu nhập chịu thuế Các khoản giảm trừ này được chia thành hai loại: miễn trừ cá nhân và miễn trừ tiêu chuẩn.
Miễn trừ cá nhân được thực hiện qua việc kê khai chi phí thực tế phát sinh cho các khoản được phép giảm trừ, bao gồm chi phí cần chứng từ, chi phí định mức và chi phí theo phương pháp "giới hạn tối đa" Có hai loại giảm trừ cá nhân: giảm trừ kinh tế, liên quan đến các chi phí tạo ra thu nhập như đi lại, ăn ở và bảo hiểm; và giảm trừ xã hội, bao gồm các khoản trợ cấp cho người có hoàn cảnh khó khăn, nuôi dưỡng và bảo trợ người già, tàn tật.
Phương pháp miễn trừ cá nhân đảm bảo sự công bằng trong thuế, thường được áp dụng ở các nước có nền kinh tế phát triển và hệ thống thông tin tốt Ngược lại, các nước chậm phát triển thường không đủ điều kiện để sử dụng phương pháp này, mà chủ yếu áp dụng phương pháp giảm trừ tiêu chuẩn Phương pháp miễn trừ cá nhân được thực hiện bằng cách xác định mức khởi điểm chịu thuế.
Mức khởi điểm chịu thuế được xác định dựa trên thu nhập trung bình xã hội, nhằm đảm bảo chi phí cần thiết cho cuộc sống theo quan niệm từng quốc gia Phương pháp giảm trừ tiêu chuẩn thường không công bằng do áp dụng chung cho mọi đối tượng, nhưng lại giúp đơn giản hóa việc tính toán thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và giảm chi phí hành thu Tại Việt Nam, với đặc thù kinh tế và xã hội, Luật thuế TNCN đã áp dụng phương pháp giảm trừ tiêu chuẩn trong thời gian dài Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và đảm bảo công bằng, Quốc Hội đã thông qua Luật thuế TNCN vào ngày 21/11/2007, có hiệu lực từ ngày ban hành.
2 PGS.TS Lê Văn Ái, TS Đỗ Đức Minh, tlđd, tr.30
3 ThS Lê Xuân Trường (2006), “Hai phương pháp xác định mức miễn trừ thuế TNCN”, Thuế Nhà nước, (25), tr.8
01/01/2009 Trong Luật thuế TNCN, Nhà nước ta đã có tính đến gia cảnh của đối tượng nộp thuế khi tính thuế TNCN
Để nghiên cứu chế định pháp lý về giao dịch dân sự, trước tiên cần hiểu rõ giao dịch dân sự là gì Để có khái niệm đầy đủ về giao dịch dân sự, cần xem xét chế định này từ nhiều góc độ khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt, “gia cảnh” có nghĩa là hoàn cảnh gia đình, trong khi “giảm trừ” là làm cho ít đi về số lượng hoặc mức độ Do đó, cụm từ “giảm trừ gia cảnh” trở nên tối nghĩa, vì không thể giảm trừ “hoàn cảnh gia đình” Theo quy định pháp luật, nhà nước cho phép giảm trừ vào thu nhập chịu thuế dựa trên hoàn cảnh của từng cá nhân nộp thuế Tuy nhiên, cụm từ này không thể hiện rõ nội dung này Tác giả đề xuất nên sử dụng thuật ngữ “giảm trừ theo gia cảnh” để đảm bảo sự trong sáng của Tiếng Việt Một số quốc gia khác đã sử dụng các thuật ngữ như “suất miễn thu cá nhân” (Thái Lan) và “khấu trừ chi phí cá nhân” (Malaysia) để diễn đạt ý tương tự.
Dưới góc độ kinh tế, giảm trừ gia cảnh (GTGC) được xem là các khoản chi phí liên quan trực tiếp đến việc tạo ra thu nhập của người lao động, như chi phí đi lại, ăn uống và nơi ở GTGC trong Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) có vai trò quan trọng trong việc loại trừ một phần thu nhập chịu thuế của người lao động, từ đó góp phần tái tạo sức lao động và tạo động lực làm việc cho họ.
Dưới góc độ xã hội, GTGC là các khoản giảm trừ mang tính trợ cấp, nhằm hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn như người già và tàn tật Những khoản này giúp người chịu thuế thực hiện nghĩa vụ đạo đức với người thân, đồng thời củng cố tình đoàn kết và tương trợ trong gia đình, giảm bớt gánh nặng cho nhà nước.
Giảm trừ gia cảnh là khoản tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế cho các nguồn thu nhập như kinh doanh, tiền lương và tiền công của cá nhân cư trú Khoản giảm trừ này bao gồm hai phần chính.
Đối tượng nộp thuế sẽ được áp dụng mức giảm trừ 4 triệu đồng mỗi tháng, tương đương 48 triệu đồng mỗi năm Mức giảm trừ này được tính theo phương pháp bình quân hàng tháng.
Bài viết này trích dẫn từ "Từ điển Tiếng Việt phổ thông" do các tác giả TS Chu Bích Thu, PGS.TS Nguyễn Ngọc Trâm, TS Nguyễn Thị Thanh Nga, TS Nguyễn Thúy Khanh và TS Nguyễn Việt Hùng biên soạn năm 2002, xuất bản bởi Viện Ngôn ngữ học tại TP.HCM, trang 338.
5 Nhóm tác giả:TS Chu Bích Thu, PGS.TS Nguyyễn Ngọc Trâm, TS Nguyễn Thị Thanh Nga, TS Nguyễn Thúy Khanh, TS Nguyễn Việt Hùng, tlđd, tr.440
6 PGS.TS Lê Văn Ái, TS Đỗ Đức Minh, tlđd, tr.76
7 PGS.TS Lê Văn Ái, TS Đỗ Đức Minh, tlđd, tr.83
8 http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/du-an-luat-thue-thu-nhap-ca-nhan-vai-y-kien-tu-goc-nhin- phap-luat-dan-su
9 http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/du-an-luat-thue-thu-nhap-ca-nhan-vai-y-kien-tu-goc-nhin- phap-luat-dan-su
6 cho cả năm, không phân biệt một số tháng trong năm tính thuế không có thu nhập hoặc thu nhập dưới 4 triệu đồng/tháng
Mức giảm trừ cho người phụ thuộc của người nộp thuế là 1,6 triệu đồng mỗi tháng, bắt đầu từ tháng mà nghĩa vụ nuôi dưỡng phát sinh.
GTGC là một yếu tố quan trọng trong Luật thuế TNCN, phản ánh sự quan tâm của nhà nước đối với hoàn cảnh của từng ĐTNT khi thu thuế Để hiểu rõ hơn về khái niệm GTGC, cần phân tích các đặc điểm cơ bản của nó.
Đặc điểm của giảm trừ gia cảnh
1.1.2.1 GTGC là một chính sách nhằm xem xét đến hoàn cảnh của từng đối tượng nộp thuế TNCN, đảm bảo thu thuế hợp lý
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế áp dụng cho thu nhập của cá nhân, chỉ đánh vào thu nhập mới phát sinh trong quá trình hoạt động của họ Để xác định thu nhập chịu thuế, cần xem xét tất cả các nguồn thu nhập của cá nhân và loại trừ những khoản chi phí hợp lý mà họ đã bỏ ra để tạo ra thu nhập Việc xác định thu nhập tính thuế cũng cần tính đến hoàn cảnh gia đình, tình huống và vị trí của cá nhân để thực hiện các khoản giảm trừ trước khi tính thu nhập chịu thuế.
Tiến sĩ Hiromitsu Ishi, Chủ tịch Uỷ ban Tư vấn thuế Chính phủ Nhật Bản, nhấn mạnh rằng mục tiêu của thu thuế TNCN là xác định khoản thu nhập tính thuế, được tính bằng thu nhập chịu thuế trừ đi chiết trừ gia cảnh Điều này giúp cơ quan thuế xác định số thuế phải nộp Việc điều chỉnh mức chiết trừ gia cảnh là bước quan trọng để đảm bảo mức sống tối thiểu cho người đóng thuế, với quy định rằng những ai có thu nhập dưới mức sống tối thiểu sẽ không phải nộp thuế Chính sách này nhằm xem xét hoàn cảnh của từng đối tượng nộp thuế, đảm bảo việc thu thuế diễn ra một cách hợp lý.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) trên thế giới thường áp dụng hai phương pháp giảm trừ: giảm trừ trước khi tính thuế và giảm trừ số thuế phải nộp Trong đó, phương pháp giảm trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế được nhiều quốc gia áp dụng hơn.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 19 Luật thuế TNCN 2007, Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 100/2008/NĐ-CP, và điểm 3.1.2 Mục I phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính, các hướng dẫn về việc thi hành Luật thuế TNCN được quy định rõ ràng nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong việc thu thuế.
Đối tượng chịu thuế bao gồm hàng hóa, dịch vụ, tài sản, thu nhập và các lợi ích vật chất khác, mà theo quy định của sắc thuế, sẽ phát sinh nghĩa vụ nộp thuế cho người nộp thuế.
12 http://www.tapchiketoan.com/thue-phi-le-phi/thue-thu-nhap-ca-nhan/dieu-tiet-thue-tncn-kinh-nghiem-tu- nha.html
13 TS Đỗ Thị Thìn (2006), “Chuyên gia liên minh Châu Âu nói về thuế TNCN”, Thuế Nhà nước, (23), tr.7
Việt Nam áp dụng cách giảm trừ thứ nhất đó là trừ vào thu nhập chịu thuế một khoản tiền trước khi tính thuế
1.1.2.2 GTGC chỉ áp dụng đối với cá nhân cư trú
Mặc dù được gọi là Luật thuế TNCN, không phải tất cả các quốc gia đều áp dụng đơn vị tính thuế là cá nhân; mỗi nước có cách tính thuế riêng Tuy nhiên, các đơn vị tính thuế chủ yếu vẫn tập trung vào cá nhân, vợ chồng và gia đình.
Nếu áp dụng đơn vị tính thuế là hộ gia đình như ở Pháp, đối tượng cư trú sẽ được kê khai nộp thuế theo hộ gia đình, bao gồm cá nhân độc thân, vợ chồng có hoặc không có con, và người nuôi dưỡng như trẻ chưa thành niên hoặc người tàn tật Khi tính thuế, cần qui đổi từng thành viên trong hộ gia đình thành các suất thuế Mặc dù thu thuế theo hộ gia đình có vẻ hợp lý, để thực hiện chế độ này, cần có điều kiện gia đình ổn định và định nghĩa cụ thể về gia đình.
Phương pháp thu thuế theo cá nhân cho phép trừ các chi phí như chi phí bản thân, nuôi con, nuôi bố mẹ già và người tàn tật Mỗi phương thức điều tiết thuế đều có ưu và nhược điểm riêng Dù việc tính thuế theo cá nhân khó đảm bảo sự công bằng so với tính thuế theo hộ gia đình, nhưng nó lại nhận được sự ủng hộ rộng rãi do phù hợp với hệ thống thuế thu nhập chuẩn Tại Việt Nam, việc áp dụng đơn vị tính thuế cá nhân là hợp lý, vì hệ thống này vừa hiệu quả, vừa đơn giản và dễ thực hiện.
Việc xác định đối tượng nộp thuế (ĐTNT) là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng sắc thuế, giúp nhà nước áp dụng phương pháp tính thuế và đưa ra mức điều tiết hợp lý Thông thường, để xác định ĐTNT cho thuế thu nhập nói chung và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) nói riêng, các quốc gia thường dựa vào hai tiêu chí chính là “nơi cư trú” và “địa điểm phát sinh thu nhập”.
Theo phương thức đánh thuế dựa trên "địa điểm phát sinh thu nhập", cá nhân có thu nhập chịu thuế tại một quốc gia chỉ phải nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) cho các khoản thu nhập phát sinh trong nước Những khoản thu nhập phát sinh ở nước ngoài sẽ không bị đánh thuế TNCN.
Phương thức đánh thuế dựa vào tình trạng cư trú được áp dụng phổ biến trên toàn cầu Theo đó, cá nhân cư trú tại một quốc gia phải nộp thuế cho cả thu nhập phát sinh trong và ngoài lãnh thổ, trong khi cá nhân không cư trú chỉ bị đánh thuế cho thu nhập phát sinh trong nước Do đó, tất cả cá nhân, dù cư trú hay không, có thu nhập trong năm tính thuế đều phải chịu trách nhiệm nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN).
Khái niệm về đối tượng cư trú tại một quốc gia được định nghĩa khác nhau trong Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) của các nước Thông thường, nhiều quốc gia quy định rằng đối tượng cư trú là những người sống tại nước sở tại trên 182 hoặc 183 ngày trong một năm tính thuế, có thể là năm dương lịch.
14 PGS.TS Lê Văn Ái, TS Đỗ Đức Minh, tlđd, tr.102-103
15 PGS.TS Lê Văn Ái, TS Đỗ Đức Minh, tlđd, tr 27
8 hoặc năm tài chính), hoặc trong khoảng thời gian 12 tháng liên tục Nếu không thỏa mãn điều kiện trên thì được coi là đối tượng không cư trú
Ngoài tiêu chí về thời gian, một số quốc gia còn bổ sung thêm các tiêu chí khác để xác định cá nhân là cư trú hay không Tại Pháp, cư trú được xác định cho người quốc tịch Pháp và người nước ngoài có nơi ở chính, cư trú không thường xuyên hoặc không cư trú Tại Nhật Bản, cá nhân nước ngoài được coi là cư trú trừ khi hợp đồng lao động hoặc giấy tờ khác quy định thời gian ở lại dưới 1 năm Hàn Quốc xác định người cư trú là cá nhân có nhà ở hoặc nơi cư trú tại nước này từ 1 năm trở lên, bao gồm cả các quan chức và giám đốc làm việc ở nước ngoài Ở Mỹ, người nước ngoài được coi là cư trú nếu họ có thẻ xanh hoặc cư trú hợp pháp thường xuyên tại đây.
Mỹ đã có một thời gian dài để cấp thẻ lưu trú, và định nghĩa về "đối tượng cư trú" hay "đối tượng không cư trú" khác nhau giữa các quốc gia, tùy thuộc vào tình hình kinh tế xã hội, chính sách và trình độ quản lý Phân biệt này có ảnh hưởng lớn đến nghĩa vụ thuế của cá nhân.
Mỗi quốc gia có thể lựa chọn nguyên tắc đánh thuế phù hợp dựa trên điều kiện kinh tế xã hội, chính sách và trình độ quản lý Tại Việt Nam, pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện vẫn áp dụng hai tiêu chí để xác định đối tượng nộp thuế Tuy nhiên, Luật thuế TNCN đã được điều chỉnh để phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó quy định đối tượng nộp thuế dựa vào tiêu chí “nơi cư trú”.
Cơ sở ban hành chế định giảm trừ gia cảnh
Để xây dựng nội dung cụ thể cho chế định giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế TNCN, các nhà làm luật cần dựa vào các cơ sở nhất định nhằm đảm bảo tính phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đồng thời nâng cao hiệu quả và khả thi của pháp luật.
1.1.3.1 Dựa trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc công bằng trong việc ban hành và thực thi thuế TNCN
Trong xã hội, sự phân hóa giàu nghèo là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường với các quy luật như cạnh tranh, cung cầu và giá cả Khi kinh tế thị trường phát triển, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, dẫn đến sự chênh lệch lớn về mức sống và thu nhập giữa các tầng lớp dân cư Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) được xem là giải pháp nhằm tái lập sự cân bằng trong phân phối của cải xã hội, bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như tài năng, may mắn, môi trường sống và quan hệ xã hội Như vậy, thuế TNCN ra đời nhằm đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập.
Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế TNCN hướng đến việc xác định các yêu cầu và nội dung trong quy định thuế, đảm bảo việc thu thuế hợp lý dựa trên khả năng chi trả của người nộp thuế Nguyên tắc này xem xét các yếu tố hoàn cảnh và điều kiện sống, đảm bảo rằng những người có thu nhập khác nhau sẽ có nghĩa vụ nộp thuế khác nhau; cụ thể, người có thu nhập cao hơn sẽ nộp thuế cao hơn, trong khi những người có thu nhập và hoàn cảnh tương đồng sẽ nộp thuế bằng nhau.
Để đảm bảo nguyên tắc công bằng trong việc ban hành và thực thi thuế TNCN, các nhà làm luật cần quán triệt nguyên tắc công bằng khi xây dựng Luật thuế TNCN Các quy định về Giảm trừ gia cảnh (GTGC) cũng phải tuân thủ nguyên tắc này Việc xác định đối tượng được giảm trừ, mức giảm trừ cần thiết phải dựa trên tính công bằng Nhà nước cần nắm rõ nhân thân, hoàn cảnh và điều kiện sống của người nộp thuế để thực hiện GTGC trước khi tính thuế, nhằm bảo vệ quyền lợi của họ và hỗ trợ họ thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với các đối tượng phụ thuộc.
Trên toàn cầu, nhiều quốc gia đã đưa quy định về giao dịch chuyển nhượng vốn vào Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) Tuy nhiên, mỗi quốc gia áp dụng các quy định này khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, xã hội và trình độ quản lý của từng nước.
24 http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/van-dung-nguyen-tac-cong-bang-trong-ban-hanh-thue-thu- nhap-ca-nhan
25 Xem thêm: Phan Phương Nam (2005), Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Luật TP.HCM
Nhiều quốc gia áp dụng mức miễn trừ thuế cho các đối tượng phụ thuộc như vợ, chồng, bố mẹ và con cái, trong khi một số nước lại tính thuế từ đồng thu nhập đầu tiên để người nộp thuế nhận thức rõ nghĩa vụ công dân Một số hệ thống thuế quy định mức thu nhập khởi điểm miễn thuế, giúp đảm bảo công bằng giữa người độc thân và những người nuôi dưỡng phụ thuộc Luật thuế TNCN tại Việt Nam cũng chú trọng đến gánh nặng gia cảnh, từ đó tạo điều kiện cho việc điều tiết thuế hợp lý và công bằng hơn, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thuế TNCN.
1.1.3.2 Dựa trên mục tiêu đảm bảo thu thuế TNCN hợp lý, phù hợp với gia cảnh của từng đối tượng nộp thuế Để đảm bảo thu thuế TNCN hợp lý, phù hợp với gia cảnh của từng ĐTNT, thuế TNCN cần phải qui định chế định GTGC vào trong luật Có thể nói, mục đích đầu tiên mà nhà nước mong muốn đạt được khi ban hành một đạo luật thuế là thu ngân sách Tuy nhiên, bên cạnh đảm bảo nguyên tắc tính đúng, tính đủ khi thu thuế thì nhà nước còn phải xem xét tới tính hợp lý Tức khi thu thuế, nhà nước không chỉ dựa trên khả năng chi trả của ĐTNT như Pháp lệnh thuế TNC trước đây, là những người có thu nhập khác nhau sẽ có nghĩa vụ nộp thuế khác nhau, người có thu nhập cao hơn sẽ phải nộp thuế cao hơn, những người có thu nhập thấp sẽ nộp thuế ít hơn và những người có thu nhập dưới mức phải chịu thuế thì không phải nộp thuế Mà thuế TNCN hiện nay, bên cạnh việc thu thuế dựa trên khả năng chi trả của ĐTNT còn xem xét, cân nhắc tới gia cảnh cụ thể của từng cá nhân Điều đó là hợp lý, vì như thế thể hiện quan điểm của nhà nước khi ban hành sắc thuế TNCN là không “tận thu”, mà chỉ động viên thu nhập dân cư khi họ đã đảm bảo được cuộc sống cho bản thân và cho những người thân thuộc của họ ở một mức độ nhất định Có như thế mới nhận được sự đồng thuận của nhân dân, tạo tâm lý thoải mái cho người dân khi nộp thuế Đó chính là một trong những lý do mà nhà làm luật đưa ra qui định về giảm trừ gia cảnh
1.1.3.3 Dựa trên cơ sở đảm bảo phù hợp với điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước
Mọi quy định pháp luật khi được ban hành cần phải phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước, và quy định về GTGC cũng không phải là ngoại lệ.
Thứ nhất, chế định GTGC phải đảm bảo phù hợp với điều kiện chính trị của đất nước
Thuế và pháp luật thuế xuất hiện đồng thời với sự hình thành của nhà nước Ba yếu tố này - nhà nước, pháp luật và thuế - không chỉ cùng tồn tại mà còn tác động lẫn nhau, tạo thành một hệ thống quản lý và điều tiết xã hội.
Sự xuất hiện và phát triển của thuế luôn gắn liền với từng giai đoạn lịch sử và lợi ích của nhà nước do giai cấp thống trị nắm quyền Bản chất của nhà nước quyết định tính chất của thuế và pháp luật thuế, ảnh hưởng đến cách thức và phạm vi điều tiết thuế đối với xã hội và công dân Điều này cho thấy rằng không thể có một hệ thống thuế nhân đạo trong một nhà nước không công bằng.
26 PGS.TS Lê Văn Ái, TS Đỗ Đức Minh, tlđd, tr.106
Dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân phải gánh chịu sưu cao thuế nặng, bao gồm nhiều loại thuế như thuế thân, khiến họ luôn sống trong lo sợ trước sự áp bức của quan lại Giai cấp thống trị hoàn toàn không quan tâm đến đời sống của người dân, bất kể họ giàu hay nghèo, đều phải nộp thuế, cho thấy tính giai cấp của nhà nước được đặt lên hàng đầu so với tính xã hội Trong một nhà nước phản động như vậy, sự tồn tại của một sắc thuế nhân đạo gần như là điều không thể.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) của chúng ta là “của dân, do dân và vì dân”, vì vậy bản chất của thuế mang tính nhân văn cao, động viên thu nhập của dân cư vào ngân sách Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) không chỉ cần phù hợp với thông lệ quốc tế mà còn phản ánh đặc điểm của nhà nước XHCN Do đó, các nhà làm luật phải tìm cách động viên thu nhập của dân cư một cách hợp lý, không thể áp dụng cách thu thuế bình quân như trước đây Việc quy định giá trị gia tăng (GTGC) trong thuế TNCN là cần thiết, thể hiện tính nhân đạo của một sắc thuế trong một nhà nước luôn lấy dân làm gốc như Việt Nam.
Thứ hai, chế định GTGC phải đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước
Thuế TNCN có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người dân, vì họ có nghĩa vụ đóng thuế Cách Nhà nước quy định thuế sẽ tác động đến ý thức và hành vi thực hiện nghĩa vụ này Luật thuế TNCN có tác động hai chiều, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và ngược lại Nếu chỉ tập trung vào việc điều tiết thu nhập mà không xem xét tác động đến nền kinh tế, sẽ dễ dẫn đến những hệ lụy tiêu cực Do đó, cần có sự hài hòa giữa điều tiết thu nhập và phát triển kinh tế để đảm bảo lợi ích cho cả người dân và nền kinh tế.
Nhà nước hiện đang khuyến khích người dân tích cực lao động để tạo thu nhập, góp phần phát triển kinh tế Dựa trên chính sách này, các nhà làm luật đã quy định cho phép khấu trừ một số khoản chi phí trong thuế thu nhập cá nhân, nhằm loại trừ giá trị sức lao động và nghĩa vụ tài chính của người dân đối với một số chủ thể nhất định Mục tiêu của những quy định này là tái tạo sức sản xuất và sức tiêu dùng của người lao động, kích cầu và thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa, từ đó tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh tế Đây chính là cơ sở cho sự ra đời của chế định GTGC.
Chế định giá trị gia tăng cần phải phù hợp với điều kiện xã hội của đất nước, bao gồm các yếu tố như chính sách dân số, đời sống cư dân và đạo đức xã hội Những yếu tố này là cơ sở để các nhà làm luật đưa ra các quy định và con số liên quan đến giá trị gia tăng trong thuế thu nhập cá nhân.
27 Trường đại học Luật TP.HCM (2008), Tập bài giảng luật Thuế , TP.HCM, tr.11
Ý nghĩa của giảm trừ gia cảnh
Chế định giá trị gia tăng (GTGC) trong Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) không phải là một ý tưởng mới, mà đã được áp dụng tại nhiều quốc gia phát triển và khu vực như Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc Tuy nhiên, đây là một nội dung mới trong Luật thuế TNCN tại Việt Nam Chế định GTGC mang lại nhiều ý nghĩa về mặt đạo đức xã hội và kinh tế, đồng thời góp phần đảm bảo công bằng xã hội, tạo nên tính ưu việt của Luật thuế TNCN.
1.1.4.1 Chế định GTGC góp phần đảm bảo công bằng xã hội Đảm bảo công bằng xã hội là một trong những cơ sở, mục tiêu mà nhà nước dựa vào đó để xây dựng Luật thuế TNCN Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chế định GTGC là, nhà nước động viên một phần thu nhập của nhân dân vào NSNN có tính đến gia cảnh cụ thể của từng người Trước đây thuế TNC chỉ có qui định khởi điểm tính thuế, tức cá nhân có thu nhập đến một ngưỡng nhất định mà luật qui định thì phải nộp thuế, đánh thuế theo kiểu bình quân chủ nghĩa, không có tính đến điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng người, không có xem xét đến việc là người ta đã sử dụng thu nhập đó như thế nào, người độc thân chi tiêu có khác với người có gia đình không? ĐTNT có nhiều người phụ thuộc có khác với ĐTNT có ít người phụ thuộc hơn không? Cách tính thuế này có ưu điểm là đơn giản, dễ thực hiện, nhưng chưa thực sự đảm bảo công bằng xã hội giữa cá nhân có cùng thu nhập nhưng có hoàn
28 http://www.tapchiketoan.com/tin-tuc/tin-tuc-thue-phi/thue-thu-nhap-ca-nhan-dam-bao-cong-bang-x.html
Thuế TNCN đã thể hiện tính ưu việt của mình thông qua việc qui định chế định GTGC trong luật, khắc phục những hạn chế của thuế TNC trước đây Điều này cho thấy sự quan tâm rõ ràng của nhà nước đối với mục tiêu công bằng xã hội và khả năng đóng góp của người dân.
1.1.4.2 Ý nghĩa về mặt đạo đức xã hội
Việc giao tặng gia đình (GTGC) trong trường hợp có người sống phụ thuộc không chỉ giúp người chịu thuế thực hiện nghĩa vụ đạo đức với người thân mà còn củng cố tình đoàn kết trong gia đình Ở Việt Nam, gia đình được coi là tế bào xã hội quan trọng, và GTGC trong Luật thuế TNCN trở thành biện pháp thiết yếu để nhà nước đạt được các mục tiêu xã hội Trong bối cảnh chính sách an sinh xã hội còn hạn chế và áp lực từ dân số đông, việc cho phép cá nhân GTGC từ thu nhập chịu thuế giúp giảm bớt gánh nặng cho nhà nước và hỗ trợ người dân Mục tiêu của nhà nước thông qua thuế TNCN là điều tiết và phân phối lại thu nhập, đảm bảo mức sống tối thiểu cho người dân, hướng tới một xã hội công bằng và văn minh.
Giảm trừ gia cảnh đối với cá nhân giúp loại bỏ phần thu nhập tính thuế từ giá trị sức lao động, ngăn chặn việc đánh thuế vào sinh lực của con người Điều này không chỉ bảo vệ quyền lợi của người chịu thuế mà còn góp phần tái tạo sức lao động, tạo điều kiện cho người lao động duy trì năng suất làm việc ổn định, không thấp hơn so với trước đó.
Các nhà làm luật tại Anh nhấn mạnh rằng việc khấu trừ chi phí trong thuế TNCN cần dựa trên sự khuyến khích của nhà nước đối với một số khoản chi tiêu của người dân Nhà nước khuyến khích công dân tích cực lao động, sản xuất kinh doanh và gia tăng thu nhập để đảm bảo sự phát triển kinh tế Do đó, việc giảm thuế cho cá nhân nộp thuế là cần thiết, bởi trong quá trình tạo ra thu nhập, họ phải chịu chi phí và bỏ ra giá trị sức lao động Nhà nước không nên "tận thu" mà cần hỗ trợ công dân đảm bảo cuộc sống ở mức nhất định, từ đó khuyến khích họ tiếp tục lao động, tạo ra năng suất và làm giàu cho bản thân cũng như xã hội.
Trong bài viết "29 Thuế thu nhập cá nhân nên thu như thế nào" của TS Lê Nết, đăng tải trên trang http://www.nclp.org.vn, tác giả phân tích những phương pháp thu thuế thu nhập cá nhân hiệu quả Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách hệ thống thuế để đảm bảo công bằng và minh bạch, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm tối ưu hóa quy trình thu thuế, giảm thiểu gian lận và nâng cao ý thức chấp hành thuế của người dân.
Qui định của pháp luật thuế TNCN về giảm trừ gia cảnh
1.2 Qui định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân về giảm trừ gia cảnh
Luật thuế TNCN 2007, được Quốc hội khóa XII thông qua vào ngày 21/11/2007 và được công bố bởi Chủ tịch nước qua Lệnh số 13/2007/L-CTN, bao gồm 4 chương và 35 điều So với Pháp lệnh thuế TNC trước đây, luật này có nhiều nội dung mới, trong đó đáng chú ý là các quy định về Giá trị gia tăng (GTGC) Chế định GTGC trong luật này bao gồm những nội dung cơ bản quan trọng.
1.2.1 Đối tượng được giảm trừ gia cảnh và mức giảm trừ gia cảnh
1.2.1.1 Đối tượng được giảm trừ gia cảnh
Theo quy định của Luật thuế TNCN, đối tượng được giảm trừ gia cảnh (GTGC) bao gồm cá nhân nộp thuế và các đối tượng phụ thuộc Để được áp dụng GTGC, cá nhân nộp thuế phải là người cư trú và có thu nhập chịu thuế từ hoạt động kinh doanh, tiền lương hoặc tiền công Theo Điều 19, khoản 1 của Luật thuế TNCN, cá nhân nộp thuế cần đáp ứng hai điều kiện để được hưởng GTGC.
Để xác định một cá nhân là cư trú hay không cư trú và đảm bảo quyền đánh thuế, các quốc gia thường áp dụng tiêu chí “hiện diện” (183 ngày trong năm) hoặc “nơi ở thường xuyên” Tiêu chí “hiện diện” được điều chỉnh cho những người thường xuyên di chuyển giữa nhiều quốc gia, trong khi tiêu chí “nơi ở thường xuyên” có thể khiến họ không thuộc đối tượng cư trú của bất kỳ quốc gia nào Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 của Việt Nam cũng dựa trên hai tiêu chí này để xác định tình trạng cư trú của cá nhân.
Cá nhân cư trú tại Việt Nam được xác định khi đáp ứng một trong hai điều kiện: Thứ nhất, cá nhân được coi là có mặt trên lãnh thổ Việt Nam khi có sự hiện diện tại đây.
Việt Nam quy định rằng thời gian cư trú từ 183 ngày trở lên trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại nước này Ngày đến và ngày đi đều được tính là một ngày, và được xác định dựa trên chứng thực của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh trên hộ chiếu hoặc giấy thông hành Nếu nhập cảnh và xuất cảnh trong cùng một ngày, thời gian cư trú sẽ được tính chung là một ngày.
Theo quy định pháp luật tại Việt Nam, cá nhân có nơi ở thường xuyên được xác định qua hai trường hợp Thứ nhất, công dân Việt Nam có nơi ở đăng ký thường trú, tức là nơi sinh sống ổn định và lâu dài tại một địa điểm đã đăng ký theo Luật cư trú Đối với người nước ngoài, nơi ở thường xuyên là địa chỉ được ghi trong Thẻ thường trú hoặc Thẻ tạm trú do Bộ Công an cấp Thứ hai, cá nhân có thể thuê nhà để ở tại Việt Nam với hợp đồng thuê có thời hạn từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế.
30 Khoản 1 Điều 19 Luật thuế TNCN 2007; Khoản 2 Điều 2 Nghị Định 100/2007/NĐ-CP của Chính phủ; điểm
1 Mục I, Phần A Thông tư số 84/2008/TT-BTC
31 Khoản 2 Điều 2 Luật thuế TNCN 2007
Những cá nhân chưa hoặc không có nơi ở được đăng ký thường trú, hoặc không được cấp Thẻ thường trú, Thẻ tạm trú nhưng có tổng số ngày thuê nhà theo hợp đồng từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế vẫn được coi là cá nhân cư trú Điều này áp dụng cho cả trường hợp thuê ở nhiều nơi, bao gồm khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ, nhà trọ, nơi làm việc, và trụ sở cơ quan, không phân biệt việc cá nhân tự thuê hay người sử dụng lao động thuê cho nhân viên.
Cá nhân không cư trú tại Việt Nam là những người không đáp ứng các điều kiện theo khoản 2 Điều 2 Luật thuế TNCN, và chỉ những cá nhân thỏa mãn điều kiện này mới được hưởng giảm trừ gia cảnh (GTGC) Luật thuế TNCN không phân biệt giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; do đó, cá nhân cư trú có thu nhập từ nước ngoài vẫn được hưởng GTGC Ngoài ra, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam cũng có thể thực hiện việc giảm trừ cho vợ, con của họ đang sống ở nước ngoài.
Đối tượng nộp thuế chỉ được tính giá trị gia tăng (GTGC) từ những khoản thu nhập chịu thuế, bao gồm thu nhập từ kinh doanh, tiền lương và tiền công Do đó, không phải mọi khoản thu nhập phát sinh trong một khoảng thời gian nhất định đều được tính vào GTGC, mà chỉ những khoản thu nhập hợp lệ từ các nguồn nêu trên mới được xem xét.
Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh được xác định bằng doanh thu trừ các chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập trong kỳ tính thuế Doanh thu bao gồm toàn bộ tiền từ bán hàng, gia công, hoa hồng và cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong kỳ tính thuế Thời điểm xác định doanh thu là khi chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa, hoàn thành dịch vụ hoặc lập hóa đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ.
Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công được xác định dựa trên tổng thu nhập mà người nộp thuế nhận được trong kỳ tính thuế, theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật thuế TNCN Thời điểm xác định thu nhập này là khi tổ chức, cá nhân trả thu nhập hoặc khi người nộp thuế nhận được thu nhập Các khoản thu nhập không chỉ bao gồm tiền lương theo hệ số, thang bậc của nhà nước mà còn bao gồm toàn bộ tiền lương, tiền công, các khoản trợ cấp, phụ cấp, tiền thù lao, tiền thưởng và các lợi ích khác theo quy định pháp luật.
32 Khoản 3 Điều 2 Luật thuế TNCN; Khoản 3 Điều 2 Nghị Định 100/2007/NĐ-CP của Chính phủ; điểm 1 Mục
I, Phần A Thông tư số 84/2008/TT-BTC
33 Khoản 3 Điều 3 Luật thuế TNCN
Theo khoản 3 Điều 10 của Luật thuế TNCN, có 34 khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập chịu thuế từ hoạt động kinh doanh trong kỳ tính thuế.
36 Khoản 2 điều 3 Luật thuế TNCN
Người phụ thuộc được tính để giảm thuế cho đối tượng nộp thuế là những người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng, bao gồm bốn nhóm: con, vợ (chồng), cha mẹ và anh chị em ruột cùng ông bà, cô dì, cậu chú, bác, cháu ruột Trong đó, chỉ có con đẻ, con nuôi, và con ngoài giá thú chưa thành niên (dưới 18 tuổi) không bị ràng buộc bởi điều kiện nào, trong khi các đối tượng còn lại phải đáp ứng những tiêu chí nhất định Cụ thể, nếu con trên 18 tuổi, để được giảm trừ, họ phải bị tàn tật, không có khả năng lao động, hoặc đang theo học tại các cơ sở giáo dục mà không có thu nhập hoặc thu nhập không vượt quá 500.000 đồng mỗi tháng.
Nếu một sinh viên đại học có thu nhập từ đầu tư chứng khoán 12 triệu đồng trong năm (bình quân 1 triệu đồng/tháng), thì không được coi là người phụ thuộc của cha mẹ Đối với vợ hoặc chồng trong độ tuổi lao động, họ phải đáp ứng hai điều kiện: (1) bị tàn tật không có khả năng lao động và (2) thu nhập không vượt quá 500 ngàn đồng/tháng Những người không đi làm mà ở nhà chăm sóc con cái, dù không có thu nhập, cũng không được tính giảm trừ nếu không bị tàn tật Điều này hợp lý vì lao động của họ trong gia đình được xem như có thu nhập, và một người lao động có thu nhập, không tàn tật, không thể là người phụ thuộc Nếu ngoài độ tuổi lao động, chỉ cần không có thu nhập để được xem là người phụ thuộc.
Trách nhiệm nuôi dưỡng là nghĩa vụ được giao cho đối tượng nộp thuế, yêu cầu họ thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả Nếu không đạt được kết quả tốt, họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh.
TS Nguyễn Việt Hùng, tlđd, tr.938.)