KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC NỘP ĐƠN YÊU CẦU VÀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN
Khái quát chung về phá sản và thủ tục phá sản
1.1.1 Khái niệm phá sản và vai trò của phá sản trong nền kinh tế
Hiện nay, khái niệm phá sản không có sự đồng nhất và có thể tiếp cận từ hai góc độ: tài chính và pháp lý Từ góc độ tài chính, phá sản được hiểu là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang "lâm vào tình trạng phá sản" Từ góc độ pháp lý, phá sản là "thủ tục thanh toán nợ đặc biệt" Tóm lại, phá sản là một quy trình thanh toán nợ đặc biệt áp dụng cho những chủ thể gặp khó khăn tài chính Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung phân tích khái niệm phá sản dưới góc độ tài chính và các dấu hiệu liên quan, trong khi khái niệm pháp lý sẽ được trình bày trong các phần sau.
Phá sản là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường, nhưng không chỉ giới hạn ở đó Tại Châu Âu, thuật ngữ "Bankruptcy" thường được sử dụng khi đề cập đến tình trạng phá sản của doanh nghiệp.
“Banqueroute” Hai danh từ này bắt nguồn từ thuật ngữ “Banca Rotta” của La Mã
Thuật ngữ "chiếc ghế bị gãy" xuất phát từ thời La Mã cổ đại, khi các thương gia họp nhau trong đại hội thương gia Người không trả được nợ sẽ mất quyền tham gia và chiếc ghế của họ sẽ bị lấy ra khỏi hội trường, dẫn đến tình trạng nhiều người mắc nợ phải bỏ trốn, gây mất ổn định xã hội Ở Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc và chế độ Việt Nam Cộng hòa, các thuật ngữ như "vỡ nợ", "khánh tận", "phá sản" được sử dụng để chỉ tình trạng mất khả năng thanh toán của thương gia Thuật ngữ "phá sản" trong luật pháp Việt Nam Cộng hòa thường gắn liền với Luật hình sự và các tội phạm liên quan.
Như vậy, quan niệm cũ luôn bảo vệ chủ nợ bằng cách trừng phạt thật nặng
Các nhà làm luật hy vọng rằng các quy định về "con nợ" sẽ răn đe và ngăn chặn tình trạng phá sản Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngay cả những hình phạt nghiêm khắc nhất cũng không thể ngăn chặn các vụ phá sản mới, do nguyên nhân dẫn đến phá sản thường là sự kết hợp của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan.
1 toaan.gov.vn/portal/pls/portal/docs/2201255, 16/6/2012
2 Trích theo Đại học luật TP Hồ Chí Minh, Tập bài giảng pháp luật về phá sản DN - HTX, tr9
Trong tình huống khó khăn, con nợ thường cảm thấy lo lắng về những trách nhiệm nặng nề và có thể chấp nhận rủi ro lớn để tiếp tục kinh doanh, ngay cả khi đã đối mặt với nguy cơ phá sản Họ hy vọng rằng những nỗ lực này sẽ giúp họ thoát khỏi tình trạng khủng hoảng tài chính.
Trong thời đại hiện nay, pháp luật tại nhiều quốc gia đã có cái nhìn nhân đạo hơn đối với vấn đề phá sản, khi mà con nợ không còn bị xem như tội phạm và không phải chịu hình phạt.
Thuật ngữ “phá sản” hiện nay được nhiều quốc gia sử dụng để chỉ sự thất bại trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Cụ thể, tại Nga, khái niệm này được định nghĩa trong Điều 2 của Luật vỡ nợ Liên bang Nga.
Vỡ nợ, hay phá sản, là sự công nhận của Tòa án hoặc trọng tài về việc con nợ không đủ khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính đối với chủ nợ Theo Điều 127 của Luật phá sản Nhật Bản, một công ty có thể bị tuyên bố phá sản nếu không thể sử dụng tài sản của mình để trả đầy đủ các khoản nợ.
Luật phá sản ở nhiều quốc gia chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về phá sản, mà chỉ quy định các điều kiện để cơ quan có thẩm quyền quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản Thông thường, lý do để ra quyết định này là doanh nghiệp không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn Các căn cứ xác định tình trạng phá sản khác nhau tùy thuộc vào quan điểm lập pháp và tình hình kinh tế xã hội của từng quốc gia, dẫn đến khái niệm “lâm vào tình trạng phá sản” được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Dựa trên việc phân tích các đặc điểm kinh tế và xã hội của Việt Nam, cùng với việc tham khảo các tiêu chí từ các quốc gia khác, các nhà làm luật nước ta đã định nghĩa khái niệm doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) trong tình trạng phá sản theo cách riêng của mình.
Theo Điều 3 Luật Phá sản 2004, doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) được xem là lâm vào tình trạng phá sản khi không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn theo yêu cầu của chủ nợ.
Quyết 03/2005/NQ-HĐTP, một DN - HTX được coi là lâm vào tình trạng phá sản khi hội tụ đủ các điều kiện sau:
Các khoản nợ đến hạn bao gồm những khoản nợ không có bảo đảm hoặc chỉ có bảo đảm một phần, với điều kiện chỉ tính phần không có bảo đảm Những khoản nợ này cần được các bên liên quan xác định rõ ràng, có đầy đủ tài liệu chứng minh và không có bất kỳ tranh chấp nào.
Chủ nợ đã yêu cầu doanh nghiệp thanh toán, nhưng doanh nghiệp không đủ khả năng để thực hiện nghĩa vụ này Chủ nợ cần có chứng cứ xác thực để chứng minh rằng họ đã đưa ra yêu cầu thanh toán.
3 Lê Thị Kim Ánh (2010), Thủ tục thanh lý tài sản theo Luật phá sản 2004, Luận văn thạc sĩ luật học, tr7
4 Lê Thị Kim Ánh, tldd, tr 9
6 không được DN – HTX thanh toán (căn cứ chứng minh có thể là văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của DN – HTX mắc nợ…)
Theo quy định mới, doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) sẽ bị xem là lâm vào tình trạng phá sản khi có các khoản nợ đến hạn, chủ nợ đã yêu cầu nhưng DN – HTX không có khả năng thanh toán Chủ nợ khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không cần chứng minh lý do DN – HTX không thanh toán, chỉ cần chứng minh rằng DN – HTX có khoản nợ đến hạn và đã có yêu cầu thanh toán nhưng không thực hiện.
Cách xác định khái niệm doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) lâm vào tình trạng phá sản của các nhà lập pháp Việt Nam phản ánh xu hướng chung của pháp luật phá sản thế giới, với sự thay đổi hợp lý so với Luật phá sản 1993 Luật phá sản 2004 đã đơn giản hóa định nghĩa, chỉ yêu cầu DN không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu, thay vì ba yếu tố như trong luật trước Điều này thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức của các nhà làm luật về bản chất của tình trạng phá sản Thực tế cho thấy, nguyên nhân dẫn đến mất khả năng thanh toán của DN – HTX rất đa dạng, bao gồm thua lỗ trong kinh doanh, quản lý kém hiệu quả, cũng như các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch bệnh và khủng hoảng kinh tế Do đó, Luật phá sản không cần quy định lý do cụ thể dẫn đến tình trạng này như một tiêu chí xác định dấu hiệu phá sản.
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN 2004 VỀ THỦ TỤC NỘP ĐƠN YÊU CẦU VÀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Những vấn đề pháp lý về thủ tục thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
2.1.1 Đối tƣợng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Luật phá sản 2004 kế thừa và phát triển từ Luật phá sản 1993, quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Theo đó, các chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và người lao động vẫn có quyền nộp đơn yêu cầu Đồng thời, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có nghĩa vụ tự nộp đơn Đặc biệt, Luật phá sản 2004 còn bổ sung quyền nộp đơn cho chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông công ty cổ phần và thành viên hợp danh của công ty hợp danh.
2.1.1.1 Đối tƣợng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Luật phá sản hiện hành nhằm trao quyền cho các chủ thể tự bảo vệ quyền lợi và phát hiện kịp thời tình trạng phá sản Theo đó, nhiều đối tượng liên quan trong quan hệ phá sản được phép nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, bao gồm các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần, người lao động, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông công ty cổ phần và thành viên hợp danh công ty hợp danh.
Trong quy định về các chủ thể có quyền nộp đơn, có thể nói việc trao quyền cho các chủ nợ và người lao động là thiết thực nhất
28 Đối với quyền nộp đơn yêu cầu của các chủ nợ:
Theo phân loại của Luật phá sản Việt Nam, các chủ nợ được chia thành ba nhóm: chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm Chủ nợ có bảo đảm là những người có khoản nợ được bảo vệ bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc của bên thứ ba Trong khi đó, chủ nợ có bảo đảm một phần là những chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản nhưng giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ Cuối cùng, chủ nợ không có bảo đảm là những người không có tài sản nào bảo đảm cho khoản nợ của doanh nghiệp hoặc của bên thứ ba.
Trong ba loại chủ nợ, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần thường phải chịu những thiệt hại lớn nhất khi doanh nghiệp hoặc hợp tác xã gặp khó khăn và phá sản Hiện tại, không có cơ chế nào đảm bảo rằng các nghĩa vụ của doanh nghiệp sẽ được thực hiện trong những tình huống này.
DN – HTX sẽ được thanh toán đầy đủ, tuy nhiên, khả năng phục hồi của DN – HTX và cơ chế giải quyết phá sản theo Luật phá sản là yếu tố quyết định Nếu không thể phục hồi, tài sản còn lại sẽ được phân chia theo tỷ lệ tương ứng với các nghĩa vụ chưa được đảm bảo Điều này tạo ra rủi ro cao cho các chủ nợ, vì nếu DN – HTX không phục hồi, họ có thể không thu hồi được toàn bộ vốn đầu tư Về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các chủ nợ có bảo đảm, hiện có nhiều ý kiến trái chiều Một số cho rằng điều này không cần thiết, trong khi ý kiến khác cho rằng việc hạn chế quyền này làm mất đi khả năng lựa chọn phương thức đòi nợ hiệu quả và cản trở khả năng phát hiện sớm tình trạng mất khả năng thanh toán của DN – HTX, từ đó làm giảm khả năng can thiệp kịp thời của Tòa án để hỗ trợ DN – HTX phục hồi hoạt động kinh doanh.
Theo tác giả, quy định trong Luật phá sản 2004 không cho phép chủ nợ có đảm bảo nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là hợp lý, phù hợp với xu hướng chung và có cơ sở lý luận cũng như thực tiễn.
Về mặt lý luận, các chủ nợ loại này bị hạn chế quyền nộp đơn do chính sự
29 Xem Điều 6 Luật phá sản 2004
30 Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình luật thương mại, NXB Công An Nhân Dân, tr 369
31 Chuyên đề khoa học xét xử của TAND tối cao, toaan.gov.vn/portal/pls/portal/docs/2201255.PDF,
Theo Điều 29 về xử lý tài sản đảm bảo, các khoản nợ của chủ nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã Khi đến hạn mà doanh nghiệp không thanh toán, tài sản bảo đảm sẽ được xử lý để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ Chủ nợ có bảo đảm sẽ được ưu tiên thanh toán trong trường hợp thanh lý tài sản Tuy nhiên, việc cho phép chủ nợ có bảo đảm nộp đơn ra tòa không thực sự cần thiết, vì họ có thể chọn phương thức khác để bảo vệ quyền lợi của mình Thay vì yêu cầu tuyên bố phá sản, chủ nợ có thể khởi kiện theo vụ án dân sự để xử lý tài sản bảo đảm một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn Luật phá sản cần tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nợ thực hiện quyền của mình.
Luật phá sản năm 2004 quy định các điều kiện đơn giản cho việc nộp đơn yêu cầu, trong đó đã bãi bỏ yêu cầu chủ nợ phải cung cấp tài liệu chứng minh doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) mất khả năng thanh toán Chủ nợ chỉ có thể chứng minh việc đòi nợ mà không thể cung cấp giấy tờ cụ thể về tình trạng tài chính của DN hoặc HTX Theo Điều 14, người lao động có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu DN hoặc HTX không trả lương và các khoản nợ khác, đồng thời người lao động nhận thấy DN hoặc HTX đã rơi vào tình trạng phá sản Để tránh việc nộp đơn tùy tiện, người lao động phải thông qua đại diện hoặc đại diện công đoàn của DN hoặc HTX đó.
Luật phá sản 2004 đã có sự cải tiến rõ rệt về quyền nộp đơn của người lao động so với Luật phá sản 1993 Cụ thể, theo Điều 8 của Luật phá sản 1993, chỉ có đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động mới được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến Tòa án trong những trường hợp nhất định.
DN đó không trả lương cho người lao động trong ba tháng liên tiếp Có thể thấy
32 Xem Điều 6, Điều 35 Luật phá sản 2004
Quy định về khoảng thời gian không trả lương kéo dài ba tháng liên tiếp theo Luật phá sản 1993 đã tạo ra nhiều khó khăn cho người lao động, vì doanh nghiệp có thể dễ dàng lách luật bằng cách không trả lương nhưng vẫn giữ thời gian dưới ngưỡng quy định Tuy nhiên, Luật phá sản 2004 đã điều chỉnh điều kiện này, giúp người lao động dễ dàng hơn trong việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Hiện nay, chỉ cần doanh nghiệp hoặc hợp tác xã không trả lương và các khoản nợ khác cho người lao động, thì người lao động có quyền nộp đơn yêu cầu đến Tòa án mà không cần quan tâm đến thời gian hay số tháng liên tiếp.
Việc nộp đơn yêu cầu của người lao động phải thông qua đại diện công đoàn hoặc người đại diện, điều này không chỉ ngăn chặn việc nộp đơn riêng lẻ mà còn hạn chế quyền nộp đơn của người lao động do quy trình cử đại diện phức tạp Trong bối cảnh tổ chức công đoàn và mối liên kết giữa người lao động còn yếu, việc tập hợp ý kiến và bỏ phiếu để cử đại diện trở nên khó khăn Theo nhận định của Tòa án tối cao năm 2010, điều kiện thủ tục cử người đại diện phức tạp đã trở thành rào cản lớn cho người lao động trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản Hệ quả là, trong gần năm năm thực hiện Luật phá sản năm 2004, Tòa án nhân dân chưa tiếp nhận đơn yêu cầu phá sản nào từ người lao động trong doanh nghiệp.
Theo Luật phá sản hiện hành, các chủ thể chỉ cần nộp đơn đến Tòa án có thẩm quyền để thực hiện quyền của mình Nội dung đơn yêu cầu của người lao động và chủ nợ tương đối đơn giản và có nhiều điểm tương đồng.
Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các chủ thể khác
Luật phá sản 2004 không chỉ trao quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho chủ nợ và người lao động, mà còn mở rộng quyền này cho một số đối tượng khác như chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (Điều 16), cổ đông công ty cổ phần (Điều 17) và thành viên hợp danh của công ty hợp danh (Điều 18) Đây là một điểm mới đáng chú ý trong quy định pháp luật về phá sản.
Luật phá sản 2004 đã mở rộng đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể mà còn nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quá trình xử lý các vụ phá sản So với Luật phá sản 1993, sự thay đổi này giúp đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
33 toaan.gov.vn/portal/pls/portal/docs/2201255.PDF, 16/6/2012
Để bảo vệ quyền lợi của mình, các cá nhân cần tự trang bị kiến thức và thông tin liên quan đến tình trạng phá sản của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) Điều này không chỉ giúp họ mà còn hỗ trợ Tòa án phát hiện sớm dấu hiệu phá sản, từ đó áp dụng các biện pháp cần thiết để phục hồi hoặc thanh lý tài sản của DN và HTX Điều 16 quy định quyền nộp đơn của chủ sở hữu DN nhà nước, khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi cho các bên liên quan trong quan hệ phá sản.
Những vấn đề pháp lý về việc mở thủ tục phá sản
Sau khi Tòa án quyết định thụ lý đơn yêu cầu, việc quan trọng tiếp theo là xem xét có mở thủ tục phá sản hay không, dựa trên các căn cứ cụ thể Quyết định này sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã Trong giai đoạn này, các biện pháp bảo toàn tài sản sẽ được áp dụng để tạo điều kiện phục hồi cho doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo khả năng thanh toán cho các chủ thể có quyền trong trường hợp phải tiến hành thanh lý.
2.2.1 Căn cứ và hậu quả pháp lý của quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản
2.2.1.1 Căn cứ ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản
Quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản không chỉ có tác động lớn đến
Quyết định của Tòa án về việc mở hoặc không mở thủ tục phá sản đối với DN – HTX có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan Nếu Tòa án không mở thủ tục, DN – HTX sẽ không được coi là lâm vào tình trạng phá sản và các biện pháp kiểm soát sẽ không được áp dụng Ngược lại, nếu Tòa án quyết định mở thủ tục phá sản, quyết định này sẽ tác động sâu sắc đến hoạt động của DN – HTX và các quan hệ trong thủ tục phá sản Do đó, Luật phá sản cần thiết lập một hệ thống căn cứ vững chắc để Thẩm phán đưa ra phán quyết chính xác, nhằm bảo vệ lợi ích của tất cả các chủ thể liên quan.
Theo khoản 2, Điều 28 Luật phá sản, Tòa án sẽ quyết định mở thủ tục phá sản khi có chứng cứ cho thấy doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) đã lâm vào tình trạng phá sản, nghĩa là không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn Để xác định tình trạng này, Tòa án cần xem xét kỹ lưỡng các tài liệu mà các bên cung cấp, và có thể yêu cầu bổ sung chứng cứ nếu cần thiết Đặc biệt, Tòa án cần kiểm tra toàn bộ số liệu và báo cáo từ chủ DN hoặc người đại diện để đưa ra quyết định chính xác.
Tòa án cần điều tra tình hình tài chính và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) để xác định chính xác liệu họ có thực sự lâm vào tình trạng phá sản hay không Trước khi quyết định mở thủ tục phá sản, Tòa án có thể triệu tập phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn, chủ DN hoặc HTX bị yêu cầu, cùng các cá nhân, tổ chức liên quan Phiên họp này giúp xem xét các căn cứ chứng minh tình trạng phá sản, từ đó cung cấp thông tin và chứng cứ cần thiết để Tòa án đưa ra quyết định hợp lý, bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia.
Tòa án phải ra quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản trong vòng 30 ngày kể từ khi tiếp nhận đơn yêu cầu Tuy nhiên, thời hạn này được coi là quá ngắn, vì Tòa án không đủ thời gian để thu thập tài liệu và xem xét chứng cứ kỹ lưỡng Thực tế, khi hồ sơ được giao cho Thẩm phán, thời gian thực tế chỉ còn khoảng 20 ngày Nhiều trường hợp, hồ sơ không đầy đủ do sơ suất trong quá trình thụ lý, dẫn đến yêu cầu bổ sung thông tin Đặc biệt, hồ sơ từ công ty cổ phần thường thiếu báo cáo tài chính có xác nhận của tổ chức kiểm toán, khiến Thẩm phán phải chờ đợi kết quả kiểm toán trước khi ra quyết định mở thủ tục phá sản Do đó, thời gian thực tế để ra quyết định có thể kéo dài từ 03 đến 04 tháng, trong khi quy định chỉ là 30 ngày.
Trong quá trình xem xét tài liệu liên quan đến doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX), nếu không có chứng cứ chứng minh tình trạng phá sản, Tòa án sẽ quyết định không mở thủ tục phá sản, chấm dứt quy trình giải quyết và không điều chỉnh quan hệ thanh toán nợ giữa chủ nợ và DN-HTX Ngược lại, nếu có đầy đủ chứng cứ chứng minh DN-HTX đã lâm vào tình trạng phá sản, Tòa án sẽ mở thủ tục phá sản, dẫn đến nhiều hệ quả pháp lý ảnh hưởng đến hoạt động của DN-HTX và các bên liên quan Hệ quả pháp lý từ quyết định mở thủ tục phá sản sẽ được nghiên cứu sâu hơn trong phần tiếp theo của khóa luận.
Bài viết của Vũ Thị Hồng Vân (2007) nhấn mạnh những nội dung quan trọng cần chú ý khi kiểm sát việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản Tác giả cũng đề cập đến những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn liên quan đến quy trình này, nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát và đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên liên quan.
2.2.1.2 Hậu quả của quyết định mở thủ tục phá sản
Quyết định mở thủ tục phá sản chính thức xác nhận tình trạng phá sản của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX), dẫn đến những hệ quả pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh của các DN – HTX Đồng thời, quyết định này cũng ảnh hưởng đáng kể đến các bên liên quan tham gia vào quy trình phá sản.
Theo Điều 30 Luật phá sản, các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) vẫn được tiếp tục sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, nhưng phải chịu sự giám sát của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản Mục tiêu chính của Luật phá sản không phải chỉ là thanh lý tài sản hay chấm dứt hoạt động của DN – HTX, mà là tạo cơ hội để tái tổ chức hoạt động kinh doanh, giúp DN – HTX thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ Việc duy trì hoạt động bình thường là cần thiết để nâng cao giá trị tài sản của DN – HTX, đồng thời bảo toàn và cải thiện tổng tài sản có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phục hồi, cũng như ảnh hưởng tích cực đến chủ nợ và người lao động.
Khi một doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) bị tuyên bố mở thủ tục phá sản, điều này đồng nghĩa với việc xác nhận tình trạng tài chính không bình thường của họ Sự thất bại trong quá trình phục hồi không chỉ do các yếu tố khách quan mà còn xuất phát từ nguyên nhân chủ quan của những người quản lý DN – HTX Theo Điều 30 của Luật phá sản hiện hành, mọi hoạt động kinh doanh của DN – HTX sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng trong bối cảnh này.
HTX phải tuân thủ sự giám sát và kiểm tra từ Thẩm phán cùng với Tổ quản lý, thanh lý tài sản Nếu nhận thấy người quản lý điều hành của DN – HTX không đủ khả năng, hoặc việc tiếp tục quản lý không mang lại lợi ích cho việc bảo toàn tài sản, cần có biện pháp thích hợp.
Theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán sẽ quyết định cử người khác quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp - hợp tác xã (DN – HTX).
Mặc dù hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) vẫn diễn ra bình thường, nhưng để bảo vệ tài sản của DN và HTX, một số hoạt động bị cấm hoặc yêu cầu sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và các bên liên quan Các hành vi bị cấm bao gồm cất giấu, tẩu tán tài sản, và thanh toán nợ không có bảo đảm, trong khi những hành vi bị hạn chế bao gồm cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản, và chấm dứt hợp đồng đã có hiệu lực Những hành vi này có thể làm giảm giá trị tài sản của DN và HTX.
DN – HTX đóng vai trò quan trọng trong quy trình phục hồi và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong thủ tục phá sản Quyết định mở thủ tục phá sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến DN – HTX và các chủ thể tham gia.
Nếu các doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) tiếp tục thực hiện các hành vi bị cấm, mức phạt có thể lên tới 15.000.000 đồng Trong trường hợp DN hoặc HTX thực hiện hành vi bị hạn chế mà không có sự đồng ý, mức phạt sẽ từ 5.000.000 đến 10.000.000 đồng Ngoài ra, các DN và HTX này còn phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi vi phạm (theo Điều 11 Nghị định 10/2009/NĐ-CP).
Hội nghị chủ nợ - thủ tục thương lượng giữa chủ nợ và DN - HTX mắc nợ
2.3.1 Ý nghĩa của Hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo cơ hội cho các chủ nợ và doanh nghiệp (DN) – hợp tác xã (HTX) thương lượng, tìm kiếm giải pháp hợp lý nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên Tại hội nghị, DN – HTX sẽ trình bày phương án tổ chức lại hoạt động kinh doanh, khả năng và thời hạn thanh toán nợ Các chủ nợ sẽ dựa vào tình hình tài chính hiện tại để quyết định có đồng ý với giải pháp của DN – HTX hay không, từ đó xác định liệu DN – HTX có thể bước vào quy trình phục hồi hay cần tiến hành thanh lý tài sản và các khoản nợ.
Hội nghị chủ nợ là bước quan trọng để áp dụng thủ tục phục hồi cho doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) đang gặp khó khăn Nếu quá trình phục hồi diễn ra thành công, DN – HTX có thể trở lại hoạt động bình thường, đạt được mục tiêu lớn nhất của thủ tục phá sản Việc thanh lý tài sản thường không đảm bảo khả năng thanh toán đầy đủ cho các chủ nợ, do DN – HTX đã lâm vào tình trạng tài chính khó khăn với tài sản hạn chế Phục hồi không chỉ giúp DN – HTX tạo ra lợi nhuận, mà còn tăng khả năng hoàn trả nợ và tiền lương cho người lao động Hơn nữa, phục hồi thành công bảo vệ quyền lợi của người lao động, tạo cơ hội việc làm lâu dài và đảm bảo DN – HTX tiếp tục sản xuất kinh doanh Tất cả những lợi ích này chỉ có thể đạt được nếu Hội nghị chủ nợ thành công và các chủ nợ đồng thuận với phương án tổ chức lại hoạt động kinh doanh của DN – HTX.
Nếu Hội nghị chủ nợ không dẫn đến thủ tục phục hồi, Tòa án sẽ tiến hành thanh lý tài sản và các khoản nợ của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã Tuy nhiên, điều này không nhất thiết mang lại tác động tiêu cực, vì tại Hội nghị chủ nợ, các chủ nợ sẽ được thông báo chính thức về tình hình tài chính của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã và có cơ hội nghe những thông tin quan trọng.
Có 47 phương án tổ chức lại hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX), sau đó các chủ nợ sẽ thảo luận để tìm biện pháp phù hợp nhất Nếu không thể phục hồi, việc thanh lý tài sản và các khoản nợ của DN – HTX là phương án tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan Đối với DN thua lỗ đã nhận hỗ trợ đặc biệt từ Nhà nước nhưng vẫn không thể phục hồi và thanh toán nợ khi chủ nợ yêu cầu, Tòa án sẽ không tổ chức Hội nghị chủ nợ mà quyết định thanh lý tài sản ngay lập tức Việc không tổ chức Hội nghị chủ nợ trong trường hợp này là hợp lý, vì sự hỗ trợ đặc biệt không mang lại hiệu quả phục hồi, làm cho ý nghĩa của Hội nghị không còn đảm bảo.
2.3.2 Chủ thể có quyền và nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ
Luật phá sản 2004 phân chia các chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ thành hai nhóm: nhóm có quyền tham gia và nhóm có nghĩa vụ tham gia Theo Điều 62, nhóm có quyền tham gia bao gồm các chủ nợ trong danh sách, đại diện người lao động, đại diện công đoàn, và người bảo lãnh đã trả nợ cho doanh nghiệp hoặc hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản Ngược lại, Điều 63 quy định nhóm có nghĩa vụ tham gia gồm những chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, như doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông công ty cổ phần và thành viên hợp danh công ty hợp danh Các chủ thể này bắt buộc phải tham gia Hội nghị chủ nợ khi thực hiện hành vi nộp đơn, không có quyền lựa chọn Sự phân chia này là hợp lý, nhưng quy định về các chủ thể tham gia còn tồn tại một số bất cập cần được khắc phục.
Quyền tham gia Hội nghị chủ nợ chỉ dành cho những chủ nợ có tên trong danh sách đã gửi giấy đòi nợ tới Tòa án trong vòng 60 ngày kể từ ngày công bố quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 51) Mặc dù đang tiến hành thủ tục phá sản, doanh nghiệp và hợp tác xã vẫn có thể tiếp tục hoạt động kinh doanh và ký kết các hợp đồng mới.
37 Xem Điều 78 Luật phá sản 2004
Luật phá sản hiện hành chưa quy định rõ quyền tham gia của các chủ nợ mới, dẫn đến việc họ không được bảo vệ quyền lợi hợp pháp Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các chủ nợ, đặc biệt là đại diện người lao động trong Hội nghị chủ nợ Luật phá sản 2004 thiếu sự rõ ràng về vị trí pháp lý của đại diện người lao động, gây khó khăn trong việc áp dụng Nếu người lao động không bị doanh nghiệp hoặc hợp tác xã nợ lương, họ có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ hay không, và tư cách tham gia tố tụng của họ trong các trường hợp khác nhau cũng chưa được quy định cụ thể So với Luật phá sản 1993, luật hiện hành có vẻ là một bước lùi khi không đảm bảo quyền tham gia và biểu quyết của người lao động tại Hội nghị chủ nợ, điều mà Luật phá sản 1993 đã quy định rõ ràng.
Việc xác định rõ ràng chủ thể có quyền và nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ là yếu tố quan trọng giúp các bên tự định hình hành vi của mình Đồng thời, điều này cũng là cơ sở để xác định tính hợp lệ của Hội nghị chủ nợ, cũng như điều kiện hoãn và đình chỉ thủ tục phá sản theo quy định hiện hành.
65, Điều 66 và Điều 67 của Luật phá sản
2.3.3 Điều kiện họp hợp lệ và thông qua Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ đại diện cho ý chí tập thể của các chủ nợ và có thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng liên quan đến quyền lợi của họ Sự kiện này ảnh hưởng trực tiếp đến số phận pháp lý của tất cả các chủ nợ, đảm bảo rằng quyền lợi của từng bên được xem xét và bảo vệ.
DN – HTX mắc nợ cần có quy định chặt chẽ về triệu tập và điều kiện họp Hội nghị để đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan Luật phá sản 2004 đã có những quy định đầy đủ về vấn đề này, nhưng vẫn chưa thực sự hợp lý và chưa bảo vệ tốt lợi ích của chủ nợ, người lao động, cũng như DN – HTX trong tình trạng phá sản.
2.3.3.1 Về điều kiện họp hợp lệ của Hội nghị chủ nợ Để Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ có thể đại diện cho tất cả các chủ nợ thì trước tiên Hội nghị chủ nợ đó phải được tổ chức một cách hợp lệ Theo khoản 1, Điều 65 Luật phá sản hiện hành thì Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: (i) Có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai
38 Bùi Xuân Hải (2011), “Quy định về hội nghị chủ nợ trong Luật phá sản 2004: Một số bất cập và hạn chế”,
Tạp chí khoa học pháp lý (01), tr42
Gần 49% tổng số chủ nợ không có bảo đảm tham gia, trong khi đó, có sự tham gia của người có nghĩa vụ theo quy định tại Điều 63 của Luật phá sản trong Hội nghị chủ nợ.
Theo Luật phá sản 2004, điều kiện họp hợp lệ của Hội nghị chủ nợ được quy định chặt chẽ hơn so với Luật phá sản 1993 Cụ thể, theo Điều 29 của Luật phá sản 1993, Hội nghị chủ nợ được xem là hợp lệ khi có sự tham gia của "quá nửa số chủ nợ đại diện cho hai phần ba tổng số chủ nợ không bảo đảm".
Luật phá sản 2004 đã bổ sung điều kiện mới, yêu cầu sự tham gia của người có nghĩa vụ, đồng thời vẫn giữ nguyên yêu cầu về đại diện cho ít nhất hai phần ba số nợ không có bảo đảm Tuy nhiên, điểm khác biệt quan trọng là tổng số nợ không có bảo đảm phải được đại diện bởi hơn một nửa trong Luật phá sản 2004.
Theo quy định của Luật phá sản 2004, chủ nợ không có bảo đảm có vai trò quan trọng trong việc xem xét điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ, mặc dù chủ nợ có bảo đảm một phần vẫn có khoản nợ không được đảm bảo Trong nhiều trường hợp, tổng giá trị nợ không bảo đảm của chủ nợ có bảo đảm một phần có thể lớn hơn số nợ không bảo đảm của các chủ nợ khác, điều này gây bất hợp lý nếu không được xem xét Việc triệu tập một Hội nghị chủ nợ hợp lệ cũng gặp nhiều khó khăn, vì chủ nợ không có bảo đảm cần đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không bảo đảm, trong khi số nợ này lại bị chi phối bởi các chủ nợ có bảo đảm Hơn nữa, việc tham gia Hội nghị chủ nợ đối với các chủ nợ ở xa cũng trở nên khó khăn, do luật không cho phép họ gửi ý kiến bằng văn bản, dẫn đến việc tổ chức Hội nghị trở nên phức tạp hơn.
Một số kiến nghị hoàn thiện
Trong bối cảnh xã hội luôn thay đổi, việc yêu cầu một văn bản luật hoàn hảo là điều không thực tế Hiện nay, Luật phá sản vẫn còn nhiều bất cập, không đáp ứng tốt vai trò điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã gặp khó khăn, đồng thời chưa bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan một cách hiệu quả Do đó, trong khóa luận này, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật phá sản.
Thứ nhất, đó là việc quy định hợp lý hơn và cụ thể hơn về quyền của chủ nợ mới
Trong quá trình thủ tục phá sản, quyền và nghĩa vụ của các chủ nợ chủ yếu thuộc về những người có tên trong danh sách chủ nợ Điều này có nghĩa là các chủ nợ cần gửi giấy đòi nợ đến Tòa án trong vòng 60 ngày kể từ ngày công bố quyết định mở thủ tục phá sản Những quyền quan trọng mà họ có bao gồm tham gia Hội nghị chủ nợ và biểu quyết tại Hội nghị này.
41 Bùi Xuân Hải, tlđd, tr 45
Khi doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) rơi vào tình trạng phá sản, việc thanh toán và nghĩa vụ đối với các chủ nợ trở nên phức tạp Các chủ nợ mới có thể bao gồm chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần, nhưng họ xuất hiện sau khi quyết định mở thủ tục phá sản được ban hành Mặc dù DN – HTX vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh và có thể phát sinh nợ mới, nhưng luật phá sản hiện hành chưa giải quyết thỏa đáng quyền lợi của các chủ nợ mới Việc không có quy định cụ thể bảo vệ quyền lợi của họ có thể khiến họ ngần ngại trong việc giao kết hợp đồng với DN – HTX đã có quyết định phá sản, điều này đặt ra thách thức cho việc phục hồi hoạt động kinh doanh của các tổ chức này.
Luật phá sản hiện hành có đề cập tới khoản nợ mới tại điểm e, khoản 2, Điều
Luật phá sản hiện hành không đề cập đến quyền lợi của các chủ nợ mới, thể hiện sự thiếu chặt chẽ và logic, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng phục hồi của doanh nghiệp và hợp tác xã Để phục hồi hiệu quả, doanh nghiệp cần được hỗ trợ từ các nguồn vốn mới, nhưng nếu luật không đảm bảo quyền thanh toán cho các chủ nợ này, kế hoạch phục hồi sẽ khó thành công Do đó, cần quy định rõ quyền của chủ nợ mới trong Luật phá sản để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ.
Quy định mới cho phép chủ nợ mới tham gia Hội nghị chủ nợ, giúp đảm bảo tính hợp lệ của Hội nghị và quyền biểu quyết các vấn đề quan trọng Hiện tại, theo Điều 62 Luật phá sản, quyền tham gia chỉ dành cho những chủ nợ có tên trong danh sách được chốt sau 60 ngày từ ngày công bố quyết định mở thủ tục phá sản Mặc dù doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường sau quyết định này, nhưng luật không quy định việc bổ sung danh sách chủ nợ cho các khoản nợ mới phát sinh Do đó, chủ nợ mới không có quyền tham gia, dẫn đến việc họ không được xem xét trong việc xác định điều kiện họp hợp lệ của Hội nghị chủ nợ.
42 http://thongtinphapluat.vn/vi/news/Phap-luat-thuong-mai/Luat-pha-san-2004-nhung-tien-bo-va-han-che-1264/ 16/6/12
Trong Hội nghị chủ nợ, các chủ nợ mới không được tham gia biểu quyết về quyền lợi của mình, điều này vi phạm quyền lợi của họ Cần có hướng dẫn cụ thể hoặc sửa đổi Luật để đảm bảo quyền tham gia của các chủ nợ mới vào Hội nghị, đồng thời bổ sung danh sách chủ nợ khi phát sinh khoản nợ mới từ hoạt động kinh doanh Quyền tham gia và biểu quyết tại Hội nghị cần tuân thủ nguyên tắc tiến bộ của Luật phá sản, chỉ cần xem xét các chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần để xác định điều kiện hợp lệ và thông qua Nghị quyết.
Để đảm bảo quyền lợi tối ưu cho các chủ nợ mới trong Hội nghị chủ nợ, cần có quy định rõ ràng về địa vị pháp lý của họ Các chủ nợ này là đối tượng mà doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) có nghĩa vụ thanh toán, do đó họ cần được tham gia vào cơ quan quyết định các vấn đề liên quan đến quyền lợi của mình Hơn nữa, Luật phá sản cần bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ mới, từ đó khuyến khích họ tham gia hỗ trợ vốn cho DN và HTX trong quá trình phục hồi Như vậy, việc đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ mới chính là thực hiện mục tiêu mà Luật phá sản hướng tới.
Thứ hai, đó là hoàn thiện hơn các quy định về Hội nghị chủ nợ
Việc tổ chức Hội nghị chủ nợ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và hợp tác xã đang gặp khó khăn phục hồi hoạt động kinh doanh là rất quan trọng, vì điều này không chỉ giúp họ thoát khỏi tình trạng tài chính khó khăn mà còn mang lại lợi ích cho các bên liên quan như chủ nợ và người lao động Tuy nhiên, các quy định hiện hành về triệu tập và họp Hội nghị chủ nợ còn nhiều bất cập, dẫn đến mâu thuẫn với mục đích của Luật phá sản Để cải thiện tình hình, cần thiết lập một cơ quan đại diện cho tất cả các chủ nợ, vì Hội nghị chủ nợ không phải là cơ quan hoạt động thường xuyên và việc tập hợp đủ số chủ nợ đại diện cho ít nhất một phần ba tổng số nợ không có bảo đảm là rất khó khăn Do đó, việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ sau khi quyết định mở thủ tục phá sản là cần thiết.
43 Xem Điều 61 Luật phá sản 2004
Việc giám sát và bảo toàn khối tài sản của doanh nghiệp và hợp tác xã là rất quan trọng, đặc biệt là trong bối cảnh hoạt động riêng lẻ của các chủ nợ không đảm bảo quyền lợi tối ưu cho họ Do đó, cần thiết phải thành lập một cơ quan đại diện cho tất cả các chủ nợ, có hoạt động thường xuyên nhằm giám sát và thực hiện mục tiêu của pháp luật phá sản Cơ quan này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và duy trì giá trị tài sản của doanh nghiệp và hợp tác xã.
Cơ quan đại diện cho các chủ nợ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của họ và người lao động, đồng thời triệu tập Hội nghị chủ nợ khi cần thiết Cơ quan này sẽ mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp và hợp tác xã có nhiều chủ nợ, giúp theo dõi sát sao hoạt động kinh doanh và bảo vệ quyền lợi tốt hơn Ông Dehereng đã nhấn mạnh rằng ủy ban chủ nợ, được thành lập từ Hội nghị chủ nợ, là cơ quan hoạt động hiệu quả nhất Để đảm bảo tối ưu quyền lợi cho tất cả các chủ nợ, cơ quan này cần được bầu ra tại Hội nghị chủ nợ đầu tiên và quy định rõ chức năng cùng cơ chế hoạt động.
Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ hiện tại yêu cầu hai điều kiện chính để triệu tập hợp lệ: có hơn một nửa số chủ nợ không có đảm bảo đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm và sự tham gia của người có nghĩa vụ Tuy nhiên, việc thông qua Nghị quyết chỉ diễn ra khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt, đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm Điều này khiến cho việc triệu tập Hội nghị chủ nợ hợp lệ trở nên khó khăn và dễ bị lợi dụng để trì hoãn Hơn nữa, điều kiện thông qua Nghị quyết còn chặt chẽ hơn, cho thấy Luật phá sản đã quá đề cao vai trò của chủ nợ không có bảo đảm mà không xem xét sự tham gia của chủ nợ có bảo đảm, dẫn đến việc Hội nghị chủ nợ dường như chỉ là của chủ nợ không có bảo đảm, không phản ánh đầy đủ quyền lợi của tất cả các chủ nợ liên quan đến tài sản của "con nợ".
44 Hội thảo pháp luật về phá sản doanh nghiệp, 2002, Hà Nội 16 - 18/4/2002
45 Bùi Xuân Hải, tlđd, tr 41
Việc thiếu bảo đảm một phần đã gây khó khăn trong việc triệu tập Hội nghị chủ nợ hợp lệ và thông qua Nghị quyết của Hội nghị này, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phục hồi doanh nghiệp và quyền lợi của các bên liên quan Do đó, tác giả đề xuất rằng Luật phá sản cần nới lỏng điều kiện xác định tính hợp lệ của các vấn đề này, bằng cách quy định một số lượng chủ nợ tham gia nhất định, đại diện cho tổng số nợ, nhằm đảm bảo sự đại diện đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức Hội nghị chủ nợ cũng như thông qua Nghị quyết.
Tác giả đề xuất quy định về điều kiện họp hợp lệ của Hội nghị chủ nợ, cho rằng chỉ cần quá nửa số chủ nợ có khoản nợ không bảo đảm tham gia, đại diện cho từ một phần hai tổng số nợ không có bảo đảm trở lên, thì Hội nghị sẽ được coi là hợp lệ Điều này không chỉ bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ có bảo đảm một phần mà còn giúp dễ dàng triệu tập Hội nghị Về điều kiện thông qua Nghị quyết, tác giả kiến nghị rằng Nghị quyết cần được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ khoản nợ không bảo đảm có mặt, đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên, nhằm đảm bảo tính ràng buộc cho tất cả các chủ nợ Quy định này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc triệu tập và thông qua quyết định của Hội nghị, đồng thời vẫn bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ.
Dựa trên lý luận từ Chương một, bài viết phân tích các quy định cụ thể liên quan đến thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản, giúp làm rõ vai trò bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan Qua việc xem xét các quy định về chủ thể nộp đơn, quyết định thụ lý và mở thủ tục phá sản, cũng như Hội nghị chủ nợ, chúng ta nhận thấy những tiến bộ trong Luật phá sản, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập cần khắc phục Việc giải quyết những vấn đề này là cần thiết để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho chủ nợ, người lao động và doanh nghiệp, hợp tác xã gặp khó khăn trong tình trạng phá sản.
Trong môi trường kinh tế cạnh tranh, các doanh nghiệp và hợp tác xã (DN – HTX) kém hiệu quả sẽ bị loại bỏ khỏi thị trường Tuy nhiên, Luật phá sản hỗ trợ những DN – HTX có khả năng khôi phục tài chính thông qua các thủ tục phục hồi Để xác định và đưa những DN – HTX có tình hình tài chính bất ổn vào quy trình phá sản, cần thiết phải có sự hỗ trợ từ thủ tục nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Mặc dù có vai trò quan trọng, nhưng thủ tục này vẫn tồn tại một số bất cập, ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng trong thực tiễn Trong khuôn khổ nghiên cứu hạn chế, tác giả chỉ có thể tập trung vào một số nội dung cơ bản của vấn đề này.