CƠ SỞ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ CỦA ĐỐI THOẠI TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH VỀ ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
Khái quát chung về đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính
Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân được Nhà nước công nhận và bảo đảm thực hiện Theo tiếng Latinh, khiếu nại có nghĩa là “complaint”, thể hiện sự phàn nàn hoặc bất bình của cá nhân về vấn đề liên quan đến họ Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “khiếu nại” là đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét một hành vi mà người dân cho là trái phép hoặc không hợp lý Do đó, khiếu nại có thể diễn ra trong nhiều lĩnh vực, bao gồm khiếu nại về bầu cử, lao động, hành chính và tư pháp.
Luật Khiếu nại năm 2011 quy định rằng khiếu nại là hành động của công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét lại các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính mà họ cho rằng vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền lợi hợp pháp của mình Đây được gọi là khiếu nại hành chính.
Có thể nhận diện khiếu nại hành chính thông qua những đặc điểm cơ bản sau:
Khiếu nại hành chính chỉ xảy ra trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, không bao gồm các tranh chấp giữa khách hàng và doanh nghiệp hay giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Chủ thể của khiếu nại hành chính, bao gồm công dân, cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức, là những đối tượng tiếp nhận các quyết định hành chính, hành vi hành chính và quyết định kỷ luật có dấu hiệu vi phạm pháp luật từ các cơ quan có thẩm quyền.
1 Viện Ngôn ngữ học (2016), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.49
2 Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011
Ba là, đối tượng của khiếu nại là QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức
Quyết định hành chính (QĐHC) là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan này ban hành Nó nhằm mục đích quyết định một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước và được áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng cụ thể.
HVHC đề cập đến hành vi của cơ quan hành chính nhà nước và những người có thẩm quyền trong cơ quan này khi thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Quyết định kỷ luật là văn bản chính thức từ người đứng đầu cơ quan, tổ chức nhằm áp dụng hình thức kỷ luật cho cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý, tuân theo quy định pháp luật hiện hành về cán bộ, công chức.
Mục đích của người khiếu nại là khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp mà họ cho rằng đã bị xâm hại bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật vi phạm pháp luật Khiếu nại hành chính là phản ứng của công dân, cơ quan, tổ chức trước các vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ Việc khôi phục quyền lợi phụ thuộc vào kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Năm là, việc khiếu nại và GQKNHC được thực hiện theo thủ tục hành chính
(do Luật Khiếu nại trực tiếp điều chỉnh), đơn giản hơn rất nhiều so với thủ tục tố tụng hành chính do Tòa án tiến hành
* Giải quyết khiếu nại hành chính
Trong quan hệ khiếu nại hành chính, người bị khiếu nại là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền, trong khi người khiếu nại có thể là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính (QĐHC) hoặc hành vi hành chính (HVHC) Mối quan hệ này mang tính chất bất bình đẳng, với một bên là chủ thể quản lý có quyền ban hành QĐHC hay thực hiện HVHC, và bên còn lại là đối tượng chịu sự quản lý, có quyền khiếu nại khi cảm thấy quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm.
3 Khoản 8 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011
4 Khoản 9 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011
Theo Khoản 10 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011, khiếu nại phát sinh khi có mâu thuẫn giữa các bên liên quan cần được xem xét và giải quyết Trong quá trình này, chủ thể quản lý hoặc thủ trưởng cấp trên có trách nhiệm xác minh và đưa ra kết luận về tính đúng sai của khiếu nại, cũng như xác định quyền và lợi ích của người khiếu nại có bị xâm phạm hay không Luật quy định rằng "Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại".
Từ những căn cứ và phân tích nêu trên, ta có thể rút ra được khái niệm
GQKNHC là quá trình xem xét và đánh giá của người có thẩm quyền đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính và quyết định kỷ luật bị khiếu nại, nhằm xác định tính hợp pháp và hợp lý của chúng Qua đó, người có thẩm quyền sẽ đưa ra các giải pháp xử lý và kết thúc vụ việc khiếu nại, đồng thời cung cấp cho người dân thông tin về căn cứ pháp luật và lý do ban hành các quyết định đó khi có khiếu nại phát sinh.
Xuất phát từ khái niệm GQKNHC và thực tiễn giải quyết khiếu nại, có thể đưa ra một số đặc điểm của GQKNHC như sau:
Chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại bao gồm thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật bị khiếu nại, được gọi là chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu Ngoài ra, thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu cũng có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, được gọi là chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
Khách thể của giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) là các quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại được pháp luật bảo vệ Khiếu nại thường phát sinh khi người dân cảm thấy quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính (QĐHC) hoặc hành vi hành chính (HVHC) của cơ quan công quyền Do đó, mối quan hệ xã hội mà các bên hướng đến trong GQKNHC là việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp Qua quá trình GQKNHC, sẽ xác định được liệu quyền và lợi ích chính đáng của người khiếu nại có bị xâm phạm hay không.
Khi giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC), các quyết định hành chính (QĐHC), quyết định xử lý vi phạm hành chính (HVHC) và quyết định kỷ luật bị khiếu nại là những đối tượng cần xem xét Trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý có trách nhiệm và quyền hạn theo quy định pháp luật nhằm duy trì trật tự và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức Việc ban hành QĐHC và HVHC là biểu hiện quan trọng của quản lý hành chính Nếu một QĐHC hoặc HVHC được ban hành trái pháp luật, nó không chỉ không thực hiện được chức năng quản lý mà còn xâm phạm quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan Do đó, trong quá trình GQKNHC, việc xem xét các QĐHC và HVHC bị khiếu nại là rất cần thiết.
GQKNHC thể hiện thái độ và phản ứng của nhà nước đối với khiếu nại từ công dân, cơ quan và tổ chức, nhằm xem xét và đánh giá các vụ việc Điều này giúp giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa nhân dân và Nhà nước.
Những vấn đề lý luận cơ bản về đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính thuộc lĩnh vực đất đai
hành chính thuộc lĩnh vực đất đai
1.2.1 Khái niệm đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai
Trong cơ chế thị trường hiện nay, giá trị đất đai ngày càng gia tăng, dẫn đến tình hình quản lý và sử dụng đất trở nên phức tạp Khiếu nại hành chính về đất đai, đặc biệt là các khiếu nại đông người và kéo dài, đang gia tăng đáng kể Điều này gây lo ngại vì nếu các khiếu nại này không được giải quyết nhanh chóng và triệt để, sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của cá nhân và tổ chức, làm suy giảm uy tín của chính quyền, đồng thời tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội Để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác quản lý đất đai, cần có các biện pháp kịp thời và hiệu quả.
7 Điều 12, khoản 3 Điều 5, điểm b khoản 2 Điều 14, khoản 2 Điều 6 Luật Khiếu nại năm 2011
8 Điều 37 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998
Điều 39 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định về việc giải quyết khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đai, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường đối thoại giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại Điều này liên quan đến việc các đối tượng chịu sự quản lý phải tuân thủ các quyết định hành chính về đất đai, trong khi vẫn còn những băn khoăn và vướng mắc chưa được giải quyết Chủ thể quản lý, với quyền lực nhà nước, có trách nhiệm đại diện cho nhà nước để tháo gỡ những khó khăn này.
Đối thoại trong Giải quyết Khiếu nại hành chính (GQKNHC) về đất đai là một quy trình quan trọng, được quy định bởi Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Đất đai năm 2013 Thủ tục này do cơ quan có thẩm quyền thực hiện, nhằm tạo điều kiện cho các bên liên quan, bao gồm người khiếu nại và người bị khiếu nại, gặp gỡ và trao đổi về những vấn đề còn tranh cãi Qua đó, đối thoại giúp làm rõ nội dung khiếu nại và đưa ra hướng giải quyết, từ đó góp phần vào việc kết thúc vụ việc một cách hiệu quả.
1.2.2 Đặc điểm của đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai Đối thoại trong GQKNHC về đất đai không chỉ mang những đặc điểm cơ bản của đối thoại trong GQKNHC nói chung mà còn bị chi phối bởi tính chất đặc thù của các khiếu nại hành chính trên lĩnh vực đất đai Từ khái niệm đã nêu, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản sau đây của đối thoại trong GQKNHC về đất đai:
Thứ nhất, tổ chức đối thoại là một thủ tục trong quy trình GQKNHC về đất đai
Theo Luật Khiếu nại năm 2011, đối thoại không phải là thủ tục bắt buộc trong mọi trường hợp giải quyết khiếu nại hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai Điều này có nghĩa là chỉ khi có các trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật, người có thẩm quyền mới tổ chức đối thoại để các bên có thể gặp gỡ, trao đổi và bàn luận.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 và Điều 39 Luật Khiếu nại năm 2011, trong quá trình giải quyết khiếu nại, việc tổ chức đối thoại giữa các bên liên quan là rất quan trọng Đối với khiếu nại lần đầu, đối thoại chỉ diễn ra khi có sự khác biệt giữa yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh Ngược lại, trong khiếu nại lần hai, đối thoại là thủ tục bắt buộc Điều này cho thấy, trong giải quyết khiếu nại lần đầu, việc tổ chức đối thoại có thể linh hoạt tùy theo tình hình cụ thể, không chỉ dựa vào ý chí chủ quan của người có thẩm quyền.
Năm 1998, quy định 10 được ban hành nhằm khắc phục tình trạng giải quyết khiếu nại thiếu khách quan và công bằng Điều này xảy ra khi người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lại chính là người ra quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khiếu nại, dẫn đến việc họ có thể đưa ra nhiều lý do để tránh tổ chức đối thoại Hệ quả là, những quyết định giải quyết khiếu nại có thể không chính xác, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan.
Thứ hai, việc tổ chức đối thoại do người có thẩm quyền GQKNHC về đất đai tiến hành
Theo Luật Khiếu nại năm 2011, thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) được phân chia cho nhiều cơ quan khác nhau, bao gồm: Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã, Thủ trưởng các cơ quan thuộc UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện, Thủ trưởng các cơ quan thuộc sở và cấp tương đương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ trưởng, Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra các cấp và Thủ tướng Chính phủ.
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) trong lĩnh vực đất đai chủ yếu thuộc về Chủ tịch UBND cấp huyện và cấp tỉnh, là những cơ quan được phân cấp quản lý nhà nước về đất đai Thẩm quyền này gắn liền với việc ban hành các quyết định hành chính và thực hiện các hành vi hành chính liên quan Theo Luật Đất đai năm 2013, UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất và thu hồi đất, trong khi UBND cấp xã chỉ có quyền cho thuê đất thuộc quỹ.
Theo Điều 37 của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, khi cần thiết, người giải quyết khiếu nại lần đầu có trách nhiệm gặp gỡ và đối thoại trực tiếp với người khiếu nại cũng như người bị khiếu nại Mục đích của cuộc gặp này là để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và tìm hướng giải quyết phù hợp.
Theo Điều 17 đến 26 của Luật Khiếu nại năm 2011, trong trường hợp có khiếu nại liên quan đến quyết định giao đất, cho thuê đất, hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu và tổ chức đối thoại giữa các bên nếu có sự khác biệt giữa yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh Nếu khiếu nại vẫn chưa được giải quyết, Chủ tịch UBND cấp tỉnh sẽ là người có thẩm quyền giải quyết lần hai và cũng sẽ tiến hành đối thoại Tương tự, khi có khiếu nại liên quan đến quyết định của UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh sẽ giải quyết lần đầu và tổ chức đối thoại, trong khi Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ có thẩm quyền giải quyết lần hai và tổ chức đối thoại giữa các bên.
Nội dung của đối thoại trong GQKNHC về đất đai chủ yếu tập trung vào những mâu thuẫn và sự khác biệt trong ý kiến, quan điểm giữa các bên liên quan trong quản lý và sử dụng đất đai.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khiếu nại là các quyết định hành chính (QĐHC) và hành vi hành chính (HVHC) trong quản lý đất đai được ban hành trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người dân Ngay cả khi các QĐHC và HVHC được ban hành đúng pháp luật, nếu chúng không hợp lý, người dân vẫn cảm thấy quyền lợi của họ bị xâm phạm Giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) là giải pháp giúp các bên hiểu rõ quy định pháp luật và giải quyết xung đột lợi ích Trong các buổi đối thoại, các bên sẽ thảo luận về những vấn đề còn vướng mắc và quan điểm khác biệt trong quản lý và sử dụng đất đai, từ đó góp phần giải quyết khiếu nại nhanh chóng và hiệu quả hơn Những vấn đề này có thể bao gồm căn cứ ra quyết định, chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư chưa thỏa đáng, hoặc việc cấp và thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định Tại buổi đối thoại, các bên sẽ trao đổi, thảo luận và làm sáng tỏ các thắc mắc để hiểu rõ hơn về căn cứ và tính hợp lý của các quyết định.
12 Điều 59 Luật Đất đai năm 2013
13 Xem các Điều 18, 21, 23 Luật Khiếu nại năm 2011
Thứ tư, quan hệ giữa chủ thể tổ chức đối thoại với người tham gia đối thoại trong GQKNHC về đất đai là quan hệ pháp luật hành chính
Chủ thể tổ chức đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) bao gồm người ban hành quyết định hành chính (QĐHC) hoặc người có hành vi hành chính (HVHC) bị khiếu nại, cùng với cấp trên trực tiếp của họ trong trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai Người tham gia đối thoại là cá nhân hoặc tổ chức thực hiện quyền khiếu nại khi có căn cứ cho rằng QĐHC hoặc HVHC vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của họ Mối quan hệ giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại đồng thời phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng chịu sự quản lý, trong đó yếu tố bất bình đẳng là điều không thể phủ nhận Tinh thần cơ bản của đối thoại trong GQKNHC không phải để đạt được thỏa thuận giữa các bên, mà nhằm tạo điều kiện cho các bên lắng nghe, trao đổi và trình bày những khúc mắc, từ đó giúp chủ thể có thẩm quyền thu thập thông tin để đưa ra kết luận một cách khách quan và công bằng.
Các khiếu nại hành chính về đất đai thường phức tạp do tính chất đặc thù của lĩnh vực này Đất đai là tài nguyên không tái tạo, và quyền sử dụng đất là tài sản giá trị của cá nhân, tổ chức, có thể được trao đổi, tặng cho, thừa kế, và chuyển nhượng linh hoạt Mối quan hệ về đất đai chủ yếu xoay quanh lợi ích, thường dẫn đến xung đột giữa Nhà nước và người dân Lợi ích của Nhà nước thường lớn nhưng trừu tượng, trong khi lợi ích của người dân lại cụ thể và thiết thực Do đó, đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai không nên chỉ mang tính hình thức và thủ tục, vì nếu chỉ thực hiện một cách máy móc, các khiếu nại sẽ khó được giải quyết triệt để, có thể dẫn đến khiếu nại đông người, kéo dài và gây ra nhiều hệ lụy đáng tiếc.
Quy định của pháp luật về đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính thuộc lĩnh vực đất đai
chính thuộc lĩnh vực đất đai
1.3.1 Đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai giai đoạn trước khi có Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02 tháng 9 năm 1945 tại Quảng trường Ba Đình đã đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Ngày 03/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết phải có một bản Hiến pháp dân chủ cho đất nước Dù đối mặt với nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu độc lập, Chính phủ lâm thời đã tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa đầu tiên vào ngày 06/01/1946 Sau 10 tháng chuẩn bị, vào ngày 09/11/1946, Quốc hội khóa I kỳ họp thứ 2 đã chính thức thông qua bản Hiến pháp đầu tiên, tuyên bố rằng “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.”
Mặc dù Hiến pháp 1946 không quy định cụ thể về quyền khiếu nại của công dân, nhưng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thể hiện sự quan tâm đến vấn đề này, xuất phát từ quan điểm về quyền con người và quyền dân chủ Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL, thành lập Ban Thanh tra đặc biệt với nhiệm vụ giám sát các hoạt động của chính quyền địa phương và cơ quan nhà nước Sắc lệnh quy định rõ quyền hạn của Ban Thanh tra, bao gồm việc tiếp nhận đơn khiếu nại từ nhân dân, tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ và xem xét tài liệu liên quan để thực hiện công tác giám sát hiệu quả.
Trong Sắc lệnh số 138B/SL-QD ngày 18 tháng 12 năm 1949 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, tại Điều 4 quy định Ban Thanh tra Chính
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946, được Quốc hội khóa thứ nhất thông qua vào ngày 09 tháng 11 năm 1946, quy định rõ nhiệm vụ của Quốc hội là xem xét việc thi hành các chủ trương của Chính phủ và thanh tra các khiếu nại của nhân dân.
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản nhằm đảm bảo quyền khiếu nại và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các khiếu nại của công dân Theo Thông tư số 203-NV/VP ngày 25/5/1946 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ có trách nhiệm bảo đảm công lý, chú trọng đến nguyện vọng của dân chúng và sẵn sàng xem xét những nỗi oan khuất trong xã hội.
Thông tư 436/TTg ngày 13/9/1958 của Thủ tướng Chính phủ quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan chính quyền trong việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân Thông tư nhấn mạnh rằng việc nghiên cứu và giải quyết các đơn thư khiếu nại là nhiệm vụ quan trọng của tất cả các cơ quan nhà nước Đồng thời, Thông tư cũng quy định các nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ của nhân dân trong việc khiếu tố, cũng như trách nhiệm và tổ chức của các cơ quan hành chính và chuyên môn trong việc xử lý các khiếu nại, tố cáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã đặc biệt chú trọng đến việc tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân ngay từ những ngày đầu đất nước còn nhiều khó khăn Điều này không chỉ đảm bảo quyền lợi cho nhân dân mà còn góp phần quan trọng vào việc thực hiện dân chủ trong xã hội.
Hiến pháp năm 1959, được Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua vào ngày 31 tháng 12 năm 1959, đã quy định quyền khiếu nại và trách nhiệm giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà nước trong Điều 29.
Công dân Việt Nam có quyền khiếu nại và tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên nhà nước tới bất kỳ cơ quan nào, và các khiếu nại này cần được giải quyết nhanh chóng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để điều chỉnh vấn đề này, bao gồm Nghị quyết số 164/CP và Nghị định số 165/CP về công tác thanh tra, cùng với Thông tư số 60/UBTT hướng dẫn trách nhiệm các cấp trong việc giải quyết đơn thư của nhân dân.
Hiến pháp năm 1980 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1980 (Hiến pháp năm
Hiến pháp năm 1980 đã ghi nhận quyền khiếu nại của công dân tại Điều 73, với quy định chi tiết hơn so với Hiến pháp năm 1959 Cụ thể, Điều 73 quy định rằng công dân có quyền khiếu nại và tố cáo đến bất kỳ cơ quan nào của Nhà nước về những hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc cá nhân thuộc các tổ chức đó Ngoài ra, các đơn khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết một cách nhanh chóng.
Sau khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành, trên cơ sở thẩm quyền tại Điều
Hiến pháp năm 1980 và Điều 73 của Hiến pháp này đã khẳng định quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại của công dân Ngày 27/11/1981, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh năm 1981, đánh dấu văn bản pháp luật đầu tiên quy định chi tiết về quyền khiếu nại của công dân và quy trình giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước Tiếp theo, Nghị định số 58/HĐBT ngày 29 tháng 3 năm 1982 đã cung cấp hướng dẫn cụ thể về quyền khiếu nại, công tác tiếp công dân, nhận đơn khiếu nại và quy trình giải quyết Những văn bản này đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc giải quyết khiếu nại, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai.
Sau hơn 10 năm thi hành, Pháp lệnh năm 1981 đã bộc lộ nhiều hạn chế, dẫn đến việc Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân vào ngày 07/5/1991 Pháp lệnh năm 1991 không chỉ thay thế mà còn kế thừa tinh thần của Pháp lệnh năm 1981, đồng thời đưa ra nhiều đổi mới nhằm hoàn thiện pháp luật Cụ thể, Pháp lệnh năm 1991 quy định rõ hơn về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, cũng như trình tự, thủ tục tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền của mình và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước.
Việc ban hành Pháp lệnh năm 1991 đã thay thế Pháp lệnh năm 1981, đánh dấu sự đổi mới trong nhận thức về quyền khiếu nại của công dân và quy trình giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước Mặc dù có những thay đổi cụ thể về thủ tục và thẩm quyền, nhưng các văn bản pháp lý từ Hiến pháp cho đến các văn bản cụ thể vẫn chưa đề cập đến thủ tục đối thoại trong giải quyết khiếu nại của công dân.
Luật Đất đai năm 1993, được sửa đổi và bổ sung vào các năm 1998 và 2001, quy định tại khoản 7 Điều 13 về quản lý Nhà nước đối với đất đai, bao gồm việc giải quyết tranh chấp và xử lý khiếu nại, tố cáo liên quan đến vi phạm trong quản lý và sử dụng đất.
Luật Đất đai năm 1993 và các văn bản hướng dẫn chi tiết không đề cập đến thủ tục giải quyết khiếu nại, dẫn đến việc pháp luật trong giai đoạn này chưa hoàn thiện Điều này đã gây ra khó khăn và bất cập trong việc giải quyết khiếu nại của người dân.
Thủ tục đối thoại trong Giải quyết Khiếu nại hành chính (GQKNHC) chưa được quy định rõ ràng, đặc biệt trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai, mặc dù yêu cầu về việc giải quyết nhanh chóng và khách quan đã được đặt ra Đối thoại đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết khiếu nại, nhưng việc thiếu quy định trong quy trình đã làm giảm hiệu quả công tác này, dẫn đến việc chưa đảm bảo tính dân chủ tối đa trong quản lý nhà nước Tuy nhiên, cần nhìn nhận vấn đề từ góc độ khác, phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong giai đoạn hiện tại.
Thực trạng pháp luật về đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính thuộc lĩnh vực đất đai ở Việt Nam
thuộc lĩnh vực đất đai ở Việt Nam
Quá trình phát triển quy định pháp luật về đất đai và khiếu nại đã chứng kiến những bước tiến quan trọng trong cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) trong lĩnh vực đất đai Đặc biệt, thủ tục đối thoại trong GQKNHC đã được cải thiện qua các giai đoạn lịch sử, từ khi Luật Đất đai năm 1987 và 1993 chưa quy định rõ ràng về thủ tục này cho đến những thay đổi đáng kể trong các bản sửa đổi, bổ sung sau này.
Từ năm 1998 đến nay, quy định về thủ tục giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai đã được cải thiện rõ rệt, bắt đầu với Luật Đất đai năm 2003, phân định rõ thẩm quyền và thủ tục cho hai trường hợp khiếu nại Luật Đất đai năm 2013 đã thống nhất quy trình giải quyết khiếu nại, bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người khiếu nại Ngoài ra, trước khi có Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, pháp luật chưa quy định về thủ tục đối thoại; tuy nhiên, từ đó đến nay, thủ tục này đã được cụ thể hóa qua các luật sửa đổi, bổ sung, với Luật Khiếu nại năm 2011 là phiên bản hiện hành.
Những sửa đổi và bổ sung trong pháp luật về đất đai và giải quyết khiếu nại đã nâng cao quyền lợi hợp pháp cho người khiếu nại, đồng thời đáp ứng yêu cầu dân chủ và công khai Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều hạn chế trong pháp luật về đối thoại trong giải quyết khiếu nại đất đai, ảnh hưởng đến quyền đối thoại và chất lượng của quá trình này.
Luật Khiếu nại năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện chưa có định nghĩa chính thức về đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) trong lĩnh vực đất đai, điều này đã tồn tại từ khi thủ tục đối thoại được quy định lần đầu trong Luật Khiếu nại năm 1998 Luật hiện hành chỉ quy định nhiệm vụ và mục đích tổ chức đối thoại mà chưa đưa ra khái niệm đầy đủ về đối thoại Đối thoại trong GQKNHC về đất đai là cuộc gặp gỡ giữa người dân và cơ quan nhà nước nhằm trao đổi, thảo luận về các vấn đề còn vướng mắc Việc thiếu định nghĩa chính thức dẫn đến tình trạng cơ quan nhà nước có thể áp đặt ý chí tại buổi đối thoại, và các quan điểm khác nhau về đối thoại giữa các cơ quan nhà nước gây ra sự không đồng nhất trong việc áp dụng pháp luật Một số cơ quan cho rằng đối thoại là việc làm rõ yêu cầu của người khiếu nại, trong khi số khác lại xem nó chỉ là công bố kết quả xác minh, dẫn đến nguy cơ tổ chức đối thoại một cách hình thức, không hiệu quả.
Luật Khiếu nại năm 2011 hiện vẫn thiếu quy định về "Nguyên tắc đối thoại", đây là một thiếu sót đáng tiếc Mục tiêu của đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính là làm rõ những vấn đề vướng mắc và quan điểm khác nhau Do đó, bên cạnh các quy định về điều kiện tổ chức và thành phần tham gia đối thoại, cần thiết phải thiết lập các nguyên tắc ứng xử cụ thể để các bên tuân thủ, từ đó tạo ra sự thống nhất trong nhận thức.
Theo Võ Thị Chính (2015), trong luận văn Thạc sĩ Luật học, việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại cần tuân thủ quy định pháp luật, đảm bảo tính khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời Đối thoại được xem là một thủ tục quan trọng trong quy trình này.
Quy định về giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) trong lĩnh vực đất đai cần được áp dụng trong các buổi đối thoại, tuy nhiên, nội dung của các quy định hiện tại chưa đủ cụ thể để làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức đối thoại Điều này dẫn đến việc các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền thường có những nhận thức và hành động không thống nhất trong quá trình đối thoại, như tổ chức đối thoại không đúng thẩm quyền hoặc không tuân thủ trình tự, thủ tục Kết quả là, các buổi đối thoại không được công nhận, gây lãng phí thời gian và công sức của cơ quan nhà nước, đồng thời ảnh hưởng đến quyền lợi của người khiếu nại.
Trong lĩnh vực đất đai, kết quả của hoạt động đối thoại có thể chia thành hai loại: đối thoại thành công và đối thoại không thành công Đây là hai kết quả tự nhiên phát sinh từ bất kỳ cuộc đối thoại nào được tiến hành.
Trong hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) liên quan đến đất đai, các bên luôn tìm kiếm phương án giải quyết hiệu quả, nhanh chóng và khách quan Đối thoại trong GQKNHC, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý các vụ việc khiếu nại.
Khoản 5 Điều 30 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: “Kết quả đối thoại là một trong các căn cứ để giải quyết khiếu nại” Tuy nhiên, hiện Luật Khiếu nại năm
Năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định về "xử lý kết quả đối thoại", gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các thủ tục tiếp theo sau khi đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) liên quan đến đất đai Hạn chế này làm giảm hiệu quả của công tác GQKNHC, khi các cơ quan hành chính lúng túng không biết phải hành động thế nào sau đối thoại Do đó, việc bổ sung quy định này là cần thiết để nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, từ đó góp phần thúc đẩy tiến độ giải quyết vụ việc.
Luật Khiếu nại hiện hành chưa khuyến khích việc tổ chức đối thoại ngay từ khi khiếu nại mới phát sinh Theo Điều 30 Luật Khiếu nại năm 2011, đối thoại chỉ diễn ra sau khi có báo cáo kết quả xác minh và yêu cầu của người khiếu nại còn khác nhau Mặc dù các tỉnh, thành phố đã ban hành quy trình giải quyết khiếu nại và quy chế đối thoại, nhưng việc tổ chức đối thoại ngay từ đầu vẫn chưa được thúc đẩy Điều này dễ hiểu, vì cơ quan có thẩm quyền thường muốn có kết quả xác minh trước để dễ dàng lập luận Tuy nhiên, trong bối cảnh đất đai phức tạp và có nhiều dự án triển khai, việc chủ động đối thoại với người dân từ giai đoạn đầu là rất cần thiết và mang lại nhiều lợi ích thiết thực Sự thiếu vắng quy định khuyến khích đối thoại từ Luật Khiếu nại năm 2011 là một hạn chế đáng tiếc.
Phó Chủ tịch UBND TP.HCM, ông Lê Văn Khoa, đã chủ trì buổi tiếp dân đột xuất tại Trung tâm văn hóa quận Bình Thạnh để lắng nghe và giải quyết khiếu nại liên quan đến Dự án đường nối Tân Sơn Nhất – Bình Lợi – Vành đai ngoài tại quận Tân Bình Ông Khoa cam kết sẽ xem xét ý kiến của người dân cùng với giải trình từ các Sở ngành và thông tin từ Cục III – Thanh tra Chính phủ về thẩm quyền, chính sách thu hồi đất và mức giá đền bù hỗ trợ, nhằm thống nhất phương án giải quyết hợp lý và thấu tình đạt lý.
22 hộ dân sẽ được các Sở ngành nghiên cứu và xem xét liên quan đến chính sách đền bù, giải tỏa Quy trình này nhằm trình lãnh đạo địa phương để giải quyết đúng pháp luật và thẩm quyền, đồng thời vận dụng các quy định có lợi cho người dân.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang gặp khó khăn trong việc tổ chức đối thoại khi có khiếu nại mới phát sinh, dẫn đến sự e dè và thiếu quyết đoán trong giải quyết khiếu nại Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ và chất lượng giải quyết khiếu nại về đất đai.
Thứ năm, Luật Khiếu nại năm 2011 có những quy định chưa rõ ràng về vấn đề
Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính thuộc lĩnh vực đất đai ở Việt Nam
Khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đai ở Việt Nam ngày càng được chú trọng, đặc biệt trong bối cảnh Đảng và Nhà nước nhận thức rõ vai trò của đối thoại trong việc giải quyết khiếu nại Đối thoại không chỉ giúp hóa giải các mâu thuẫn mà còn tạo ra sự đồng thuận trong xã hội Chỉ thị 35/CT-TW đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này trong công tác giải quyết khiếu nại hành chính.
Tình trạng khiếu nại, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, đang gia tăng đáng kể tại các tỉnh, thành phố trên toàn quốc Từ năm 2012 đến 2016, các cơ quan nhà nước đã tiếp nhận và xử lý 386.572 đơn khiếu nại, liên quan đến 268.225 vụ việc Tình hình này diễn biến phức tạp, với số lượng khiếu nại đông người và các vụ việc liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng ngày càng tăng Tại 20 tỉnh miền Nam, khoảng 200.000 đơn khiếu nại được ghi nhận trong cùng thời gian, trong đó TP.HCM chiếm hơn 10% với 20.500 đơn, và 83% trong số đó liên quan đến đất đai và đền bù giải tỏa.
Ngày 26/5/2014, Bộ Chính trị đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường lãnh đạo của Đảng trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, yêu cầu lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của người dân, đồng thời chủ động đối thoại để giải quyết triệt để các vấn đề phát sinh Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo các cấp lãnh đạo phải thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp dân, dành thời gian gặp gỡ, lắng nghe và kịp thời giải quyết các phản ánh của người dân Dựa trên quy định của pháp luật và sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, công tác tổ chức đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần khắc phục.
2.2.1 Về thời điểm và cách thức tổ chức đối thoại
Các địa phương trên cả nước đều tuân thủ quy định tổ chức đối thoại trong giải quyết khiếu nại lần 2 Tại Đồng Nai, 100% trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai đều được tổ chức đối thoại trước khi ban hành quyết định Đối với khiếu nại lần đầu, nhiều cơ quan chức năng không lảng tránh mà tiến hành đối thoại trực tiếp khi có yêu cầu từ người khiếu nại Một số địa phương nhận thức rõ vai trò của đối thoại và chủ động tiếp xúc với nhân dân để tìm tiếng nói chung, như trường hợp 25 hộ dân bị giải tỏa trong dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm tại Quận 2, TP.HCM, nhằm tránh khiếu kiện đông người và đảm bảo an ninh chính trị địa phương.
32 Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
33 Trung Thành, Tăng đối thoại, tạo đồng thuận
Ban nhân dân Quận đã nỗ lực giải quyết dứt điểm các khiếu nại bằng cách tổ chức gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với từng trường hợp Nhờ đó, nhiều người đã tự nguyện rút đơn khiếu nại, không còn tụ tập đông người hay khiếu nại vượt cấp nữa.
Cách thức tổ chức đối thoại trong giải quyết khiếu nại không được quy định cụ thể trong Luật Khiếu nại năm 2011, nhưng các cơ quan có thẩm quyền tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã ban hành các Quy chế và Quy định liên quan đến trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính, trong đó bao gồm cả thủ tục đối thoại Chẳng hạn, tỉnh Long An đã ban hành Quy định trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính về quản lý đất đai (Quyết định số 43/2014/QĐ-UBND ngày 22/9/2014), trong khi TP.HCM có Quy trình giải quyết khiếu nại theo Quyết định số 07/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014, cùng với các quy định về tiếp nhận đơn và giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai.
Cà Mau, Hà Tĩnh và An Giang đã ban hành các quyết định quy định quy trình giải quyết khiếu nại, bồi thường, hỗ trợ tái định cư và giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất cho các dự án Theo đó, việc tổ chức đối thoại được thực hiện nghiêm túc, với thông báo bằng văn bản đến các bên liên quan để họ nắm rõ thông tin về thời gian, địa điểm và nội dung đối thoại Tất cả các cuộc đối thoại đều được lập thành văn bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tham gia, đảm bảo quyền trình bày ý kiến và đưa ra chứng cứ liên quan đến khiếu nại của họ.
Mặc dù nhiều địa phương đã chú trọng đến việc tổ chức đối thoại, vẫn tồn tại tình trạng coi nhẹ khâu này trong một số trường hợp Một ví dụ điển hình là vụ khiếu nại của bà Nguyễn Thị Ánh Nguyệt tại Gò Vấp, TP.HCM, liên quan đến Quyết định số 6416/QĐ-UBND-TNMT ngày 10/8/2015 của Chủ tịch UBND quận Gò Vấp Bà Nguyệt cho rằng việc giải quyết đơn khiếu nại của bà không thỏa đáng và đã gửi đơn khiếu nại lần hai lên Chủ tịch UBND TP.HCM, thể hiện sự không đồng ý với quyết định của UBND quận Gò Vấp.
34 Dẫn theo Võ Thị Chính (2015), Đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TPHCM, tr.59
Vào ngày 08/6/2015, UBND quận Gò Vấp ban hành Công văn số 1515/UBND-TNMT không đồng ý cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho toàn bộ diện tích nhà đất của bà Nguyễn Thị Ánh Nguyệt Bà Nguyệt đã khiếu nại và đề nghị UBND quận Gò Vấp cấp GCNQSDĐ, nhưng không được chấp nhận Sau đó, bà gửi đơn khiếu nại lần hai tới UBND TP.HCM, nhưng trong quá trình giải quyết, UBND TP.HCM đã không tổ chức đối thoại với bà, vi phạm Điều 39 Luật Khiếu nại năm 2011 Quyết định số 4407/QĐ-UBND ngày 24/8/2016 của UBND TP.HCM không có phần “Kết quả đối thoại”, cho thấy sự cẩu thả và thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bà Nguyệt.
2.2.2 Về chất lƣợng đối thoại Để đối thoại giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại thực sự trở thành
Sự đồng thuận chỉ có thể đạt được thông qua đối thoại cởi mở, thẳng thắn và chất lượng Đối thoại diễn ra trong bối cảnh nghi ngờ và cảnh giác sẽ trở nên vô nghĩa và thậm chí phản tác dụng Nhiều địa phương đã thành công trong việc giải quyết khiếu nại nhờ tổ chức các buổi đối thoại chu đáo, trang bị kiến thức pháp luật và kỹ năng giao tiếp, từ đó giúp người khiếu nại hiểu rõ hơn về quy định và thực tiễn áp dụng, khuyến khích họ rút khiếu nại và chấm dứt vụ việc.
Vụ việc ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, là một ví dụ điển hình về khiếu kiện đất đai phức tạp, khi người dân thể hiện sự bức xúc cao độ bằng việc bắt giữ cán bộ nhà nước làm con tin Cuối cùng, sự bức xúc này chỉ có thể được giải quyết thông qua một cuộc đối thoại.
Vào ngày 22/4/2017, Chủ tịch UBND TP.Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung, đã có buổi đối thoại trực tiếp với gần 50 người dân xã Đồng Tâm sau hơn một tuần căng thẳng Buổi đối thoại kéo dài hơn 2 giờ, diễn ra trong không khí tích cực, lắng nghe và trao đổi, kết thúc với sự hài lòng của người dân thông qua Bản cam kết giải quyết vụ việc Ông Chung đã chân thành xin lỗi vì đến muộn do tai nạn giao thông và thể hiện sự thông cảm với những bức xúc của bà con Nhờ vào sự lắng nghe và kiến thức của mình, ông đã giúp giải quyết vấn đề, đưa xã Đồng Tâm trở lại cuộc sống bình thường Dù thời gian đối thoại không dài, nhưng giá trị của nó là rất lớn, thể hiện khả năng thuyết phục lòng dân của lãnh đạo Sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho buổi đối thoại đã góp phần vào thành công, minh chứng cho tầm quan trọng của việc lắng nghe và giải quyết thấu đáo các vấn đề của người dân.
36 Có thể kể đến một số vụ việc sau đây:
Vào ngày 15/3/2017, tại Hà Nội, các phòng ban chuyên môn quận Hà Đông cùng với UBND phường Kiến Hưng đã tổ chức buổi đối thoại với các hộ gia đình ông bà Nguyễn Thị Đào, Nguyễn Thị Ước và Nguyễn Văn.
Cường, cư trú tại Đa Sỹ, phường Kiến Hưng, quận Hà Đông, đã khiếu nại về việc bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất cho Dự án đấu giá quyền sử dụng đất khu xứ đồng Ngõ Cổng Trong buổi làm việc với người dân, các cơ quan có thẩm quyền đã báo cáo kết quả xác minh và làm rõ nội dung đơn khiếu nại, đồng thời phân tích các vấn đề mà người dân chưa hài lòng Các cơ quan liên quan cũng đã giải thích cho người dân hiểu rõ về chế độ và chính sách bồi thường theo quy định pháp luật Quá trình hoàn thiện pháp luật và yếu tố “con người” trong giải quyết khiếu nại đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần giải quyết nhanh chóng các khiếu nại, đảm bảo lợi ích cho người dân và ổn định tình hình trật tự xã hội, an ninh chính trị.
Chất lượng đối thoại trong giải quyết khiếu nại về đất đai ở Việt Nam thời gian qua chưa cao, dẫn đến tình trạng khiếu nại đông người, kéo dài và vượt cấp vẫn phổ biến Người dân thường khiếu nại vì cảm thấy lần giải quyết đầu tiên không thỏa đáng và chưa đúng pháp luật Nguyên nhân chính là do thiếu lắng nghe và giải quyết thấu tình đạt lý từ phía cơ quan chức năng, thậm chí một số địa phương còn “cố tình” bỏ qua thủ tục đối thoại Tại Hội nghị trực tuyến về công tác tiếp công dân, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ ra rằng mặc dù các bộ ngành đã có nỗ lực, nhưng vẫn còn bốn nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khiếu nại phức tạp Một trong số đó là lãnh đạo địa phương chưa chú trọng đúng mức đến công tác tiếp công dân và ngại đối thoại, khiến người dân không hài lòng và tiếp tục khiếu nại.
(http://www.baomoi.com/ha-dong-ha-noi-cac-ho-dan-phuong-kien-hung-da-rut-don-khieu- nai/c/21930013.epi, truy cập ngày 13/6/2017)
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai ở Việt Nam
thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai ở Việt Nam
Nghiên cứu về tổ chức đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) trong lĩnh vực đất đai ở Việt Nam cho thấy nhiều bất cập và hạn chế trong quy định pháp luật hiện hành Để cải thiện hiệu quả GQKNHC và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân, cần hoàn thiện các quy định pháp luật về đối thoại và thực tiễn tổ chức Tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác này.
2.3.1 Giải pháp về pháp luật
Thứ nhất, Luật khiếu nại năm 2011 cần bổ sung định nghĩa “Đối thoại trong
Việc bổ sung định nghĩa đối thoại trong Luật Khiếu nại hiện hành sẽ tạo ra nền tảng pháp lý vững chắc cho việc áp dụng và thực thi pháp luật Điều này không chỉ giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giải quyết khiếu nại, đặc biệt là khiếu nại về đất đai, mà còn định hướng đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của đối thoại Hơn nữa, việc thống nhất trong cách thức thực hiện thủ tục đối thoại sẽ nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại về đất đai Do đó, cần thiết phải sớm bổ sung định nghĩa này vào Luật Khiếu nại năm 2011 để hoàn thiện pháp luật và định hướng hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền.
“đối thoại trong GQKNHC” để làm cơ sở cho công tác tổ chức đối thoại trong GQKNHC thuộc lĩnh vực đất đai
Đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính (GQKNHC) là một thủ tục quan trọng trong quy trình GQKNHC, do người có thẩm quyền thực hiện Thủ tục này nhằm tạo điều kiện cho các bên liên quan, bao gồm người khiếu nại, người bị khiếu nại và các cơ quan tổ chức liên quan, gặp gỡ và trao đổi thông tin Mục tiêu của đối thoại là làm rõ nội dung khiếu nại, xác định yêu cầu của người khiếu nại và tìm ra hướng giải quyết hiệu quả, từ đó kết thúc vụ việc khiếu nại một cách hợp lý.
Thứ hai, Luật khiếu nại năm 2011 cần bổ sung quy định về “Nguyên tắc đối thoại”
Luật Khiếu nại năm 2011 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc tổ chức đối thoại trong các cơ quan hành chính nhà nước Tuy nhiên, để nâng cao nhận thức trách nhiệm và bảo vệ quyền lợi của người dân trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai, cần bổ sung quy định về "Nguyên tắc đối thoại" Việc thiết lập các nguyên tắc này sẽ giúp các bên tham gia định hướng nhận thức và hành động phù hợp, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, nơi có nhiều khiếu nại Do đó, việc sớm ban hành quy định về nguyên tắc đối thoại trong thủ tục giải quyết khiếu nại là rất cấp bách, nhằm tạo ra giá trị chuẩn mực và định hướng pháp lý cho hoạt động đối thoại trong lĩnh vực này.
Dựa trên nghiên cứu thực tiễn về tổ chức đối thoại trong giải quyết khiếu nại, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, tác giả đề xuất một số nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả của buổi đối thoại Cụ thể, tác giả kiến nghị bổ sung một điều luật mới quy định rõ nguyên tắc đối thoại để đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình giải quyết khiếu nại.
Việc đối thoại phải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
1 Bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, kịp thời;
2 Đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do luật định;
3 Nội dung đối thoại, kết quả đối thoại giữa các bên không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội;
4 Tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
Thứ ba, Luật khiếu nại năm 2011 cần bổ sung quy định về “Xử lý kết quả đối thoại”
Các khiếu nại về đất đai chiếm tỷ lệ cao, do đó việc giải quyết nhanh chóng và hiệu quả các khiếu nại này luôn được các cấp, các ngành chú trọng Tuy nhiên, thực tế cho thấy mục tiêu này chưa đạt được do nhiều nguyên nhân, dẫn đến tình trạng giải quyết khiếu nại về đất đai kém hiệu quả và nhiều vụ việc tồn đọng Một trong những nguyên nhân chính là sự lúng túng của các cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý kết quả đối thoại, cũng như sự không thống nhất giữa các địa phương Để cải thiện hoạt động đối thoại trong giải quyết khiếu nại về đất đai và nâng cao hiệu quả giải quyết, cần thiết phải có quy định về “Xử lý kết quả đối thoại” trong Luật Khiếu nại hiện hành.
Dựa trên nghiên cứu lý luận, pháp luật và thực tiễn trong việc xử lý kết quả đối thoại, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, tác giả đề xuất bổ sung điều luật quy định về xử lý kết quả đối thoại với nội dung như sau: Điều … Xử lý kết quả đối thoại.
1 Trường hợp qua đối thoại mà người khiếu nại vẫn giữ nguyên yêu cầu khiếu nại, người bị khiếu nại giữ nguyên quyết định, hành vi bị khiếu nại thì người chủ trì tổ chức đối thoại kết luận buổi đối thoại và lập biên bản đối thoại ghi nhận ý kiến của các bên tham gia đối thoại, kết quả đối thoại Trên cơ sở quy định pháp luật, kết quả đối thoại, kết quả xác minh nội dung khiếu nại và những tài liệu, chứng cứ thu thập được người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ban hành quyết định giải quyết khiếu nại
2 Trường hợp qua đối thoại mà người khiếu nại tự nguyện rút đơn khiếu nại thì người chủ trì tổ chức đối thoại lập biên bản về việc người khiếu nại tự nguyện rút đơn khiếu nại, ra quyết định đình chỉ việc giải quyết khiếu nại và thông báo cho người khiếu nại về việc đình chỉ giải quyết khiếu nại
3 Trong trường hợp qua đối thoại mà người bị khiếu nại cam kết sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định bị khiếu nại hoặc chấm dứt hành vi bị khiếu nại và người khiếu nại cam kết rút đơn khiếu nại thì người chủ trì tổ chức đối thoại lập biên bản ghi nhận cam kết của các bên Trong thời hạn … ngày kể từ ngày lập biên bản, người bị khiếu nại phải gửi cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại và người khiếu nại phải gửi cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại văn bản rút đơn khiếu nại Hết thời hạn này mà một trong các bên không thực hiện cam kết của mình thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại căn cứ vào quy định pháp luật, kết quả xác minh nội dung khiếu nại và những tài liệu, chứng cứ thu thập được để ra quyết định giải quyết khiếu nại
Khi nhận được quyết định hành chính mới hoặc văn bản rút đơn khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải thông báo cho các bên liên quan Nếu trong thời hạn … ngày kể từ khi nhận thông báo mà không có ý kiến phản đối, người có thẩm quyền sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại và thông báo ngay cho các bên Nếu có căn cứ cho rằng sự thống nhất và cam kết của bên liên quan là do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc vi phạm pháp luật, người khiếu nại có quyền khiếu nại lại nếu thời hiệu khiếu nại vẫn còn hoặc khởi kiện ra Tòa án.
Luật Khiếu nại năm 2011 cần bổ sung quy định khuyến khích các cơ quan nhà nước tổ chức đối thoại với người khiếu nại ngay từ khi khiếu nại phát sinh, thay vì chờ đến khi có báo cáo xác minh Quy định này sẽ tạo điều kiện pháp lý cho các cấp, ngành thực hiện tốt hơn vai trò bảo vệ lợi ích người dân và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước Việc triển khai quy định này sẽ giúp giải quyết hiệu quả các khiếu nại hành chính về đất đai ngay từ giai đoạn đầu, mang lại nhiều lợi ích như nắm bắt sớm tình hình vụ việc, hiểu rõ tâm tư người dân và tiết kiệm thời gian, công sức trong quá trình giải quyết Do đó, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 30 Luật Khiếu nại năm 2011.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh còn khác nhau, cơ quan giải quyết sẽ tổ chức đối thoại với các bên liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại và hướng giải quyết Nhà nước khuyến khích việc tổ chức đối thoại giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền với người khiếu nại ngay từ khi khiếu nại phát sinh.
Thứ năm, Luật Khiếu nại năm 2011 cần quy định rõ hơn về vấn đề “ủy quyền đối thoại”
Dựa trên phân tích tại Mục 2.1, quy định về “ủy quyền đối thoại” trong GQKNHC hiện đang tồn tại mâu thuẫn và thiếu rõ ràng Để xây dựng cơ chế đối thoại hiệu quả, giúp giải quyết nhanh chóng các vụ việc khiếu nại, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, Luật Khiếu nại năm 2011 cần sớm được điều chỉnh với những quy định tập trung và rõ ràng hơn về vấn đề ủy quyền đối thoại trong giải quyết khiếu nại.
Tác giả kiến nghị bổ sung quy định về “Ủy quyền đối thoại” vào Luật Khiếu nại năm 2011, nhằm giải quyết hiệu quả các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài hoặc đông người Cụ thể, thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền nên trực tiếp tổ chức đối thoại trong những trường hợp này, đồng thời cần ban hành văn bản hướng dẫn rõ ràng về định nghĩa “vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài, khiếu nại đông người” để đảm bảo tính nhất quán trong áp dụng Đối với các vụ việc không thuộc diện trên, thủ trưởng có thể ủy quyền cho thủ trưởng cơ quan chuyên môn tổ chức đối thoại, nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại.