ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI LỢI DỤNG, CHỨC VỤ QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG NHÓM TỘI VỀ CHỨC VỤ
Quy định của pháp luật về dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản trong các tội phạm về chức vụ
Điều 352 Bộ luật hình sự đã đưa ra các khái niệm các tội phạm về chức vụ và người có chức vụ
Khoản 1: “Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”
Khách thể bị xâm hại bởi các tội phạm chức vụ bao gồm các quan hệ xã hội đảm bảo tính liêm chính, vô tư và công minh trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức Luật không chỉ rõ các cơ quan trong bộ máy nhà nước mà còn mở rộng phạm vi sang khu vực tư nhân, xác định rằng các tội phạm chức vụ có thể tác động đến cả tổ chức trong và ngoài nhà nước, như cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và tổ chức kinh tế Ngoài ra, quan hệ sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức ngoài nhà nước và quyền lợi hợp pháp của công dân cũng có thể trở thành khách thể của các tội phạm này Điều 2 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 cung cấp định nghĩa rõ ràng về các thuật ngữ liên quan.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước bao gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức, đơn vị khác do Nhà nước thành lập Những đơn vị này được đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát kinh phí hoạt động và do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển chung và thiết yếu của Nhà nước và xã hội.
Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là doanh nghiệp, tổ chức không thuộc trường hợp quy định tại khoản 9 Điều này (Khoản 10 Điều 2)
Khái niệm người có chức vụ được quy định tại khoản 2 Điều 352 Bộ luật hình sự
Người có chức vụ là cá nhân được bổ nhiệm, bầu cử, ký hợp đồng hoặc thông qua hình thức khác, có thể nhận lương hoặc không Họ được giao nhiệm vụ cụ thể và có quyền hạn nhất định trong quá trình thực hiện công vụ và nhiệm vụ được giao.
Khái niệm người có chức vụ, quyền hạn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chủ thể của tội phạm theo quy định của luật hình sự Việc làm rõ khái niệm này giúp phân biệt các hành vi phạm tội, bởi vì cùng một hành vi có thể được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn hoặc không, dẫn đến việc xâm phạm các khách thể khác nhau và từ đó có những kết luận khác nhau về tội danh Do đó, xác định chính xác người có chức vụ, quyền hạn là cần thiết để các cơ quan pháp luật áp dụng đúng quy phạm pháp luật hình sự, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Theo Điều 352 Bộ luật hình sự, người có chức vụ quyền hạn được định nghĩa một cách khái quát, nhưng chưa cụ thể hóa, dẫn đến khó khăn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xác định rõ ràng khái niệm này trong thực tiễn áp dụng.
Ngoài việc quy định trong Bộ luật hình sự, thì “người có chức vụ, quyền hạn” còn được quy định trong Luật phòng, chống tham nhũng 2018
Khoản 2 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng 2018 ngoài việc đưa ra khái niệm “người có chức vụ, quyền hạn” như Bộ luật hình sự, còn quy định cụ thể người có chức vụ quyền hạn bao gồm: a) Cán bộ, công chức, viên chức; b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; c) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; d) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức; đ) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó
Trong thực tiễn xét xử, người có chức vụ quyền hạn có thể là công chức, viên chức nhà nước hoặc không, miễn là họ được giao công vụ, nhiệm vụ theo quy định pháp luật Những người này có thể được bổ nhiệm, tuyển dụng, ký hợp đồng, dân cử hoặc qua hình thức khác, và có thể nhận lương hoặc không Họ có quyền năng nhất định khi thực hiện nhiệm vụ, có thể được giao công vụ thường xuyên, theo thời vụ, hoặc trong thời gian ngắn khi cấp trên ủy quyền cho cấp dưới.
Trong thực tiễn điều tra truy tố xét xử tội phạm về tham nhũng thì người có chức vụ, quyền hạn thường là:
Người đại diện chính quyền thực hiện công vụ không phải nhân danh cá nhân mà thay mặt nhà nước, có quyền lực để ra những quyết định mang tính cưỡng chế pháp lý đối với người khác.
Người có chức vụ trong tổ chức quản lý hành chính giữ vai trò lãnh đạo và điều hành hoạt động của cơ quan Họ có quyền ra quyết định về kỷ luật và khen thưởng cho nhân viên, đồng thời điều hành và triển khai các kế hoạch được giao Ngoài ra, họ còn có trách nhiệm phân công nhiệm vụ, tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự, và kiểm tra hoạt động của nhân viên, như giám đốc, bí thư đoàn thanh niên, hay hội trưởng hội phụ nữ.
Những người đảm nhận chức năng hành chính và kinh tế có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh Họ quản lý, bảo vệ và phân phối tài sản, bao gồm các vị trí như kế toán, thủ kho và thủ quỹ Thông thường, những người này không có nhân viên dưới quyền.
Người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thực hiện hành vi trái với quy định trong phạm vi thẩm quyền của mình Trong tội tham ô tài sản, cá nhân có chức vụ có thể thực hiện những hành vi vượt quá công vụ, nhiệm vụ được giao Điều này cũng thể hiện rõ trong tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản.
Chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý di chuyển tài sản đang thuộc quyền quản lý của người khác một cách bất hợp pháp để biến nó thành tài sản của mình Trong Bộ luật hình sự, khái niệm chiếm đoạt tài sản không được định nghĩa rõ ràng, nhưng qua thực tiễn xét xử và khoa học pháp lý, hành vi này được hiểu là vi phạm quyền sở hữu và quản lý tài sản của người khác.
* Tài sản là đối tượng chiếm đoạt: Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định về tài sản:
1 Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản
2 Tài sản bao gồm bất động sản và động sản Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai
Khái niệm tài sản trong nhóm tội chiếm đoạt tài sản có nội hàm hẹp hơn so với Bộ luật dân sự Tài sản phải là vật có thực, hiện hữu, có thể cầm nắm và định đoạt, bao gồm tiền và giấy tờ có giá Trong đó, chỉ giấy tờ có giá vô danh mới là đối tượng của hành vi chiếm đoạt tài sản Các quyền tài sản như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả và bất động sản không thuộc phạm vi chiếm đoạt tài sản.
Những vướng mắc trong thực tiễn định tội danh đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản trong các tội phạm về chức vụ
Trong thực tiễn xét xử, việc xác định tội danh giữa hai loại tội phạm và các tội phạm khác trong bộ luật hình sự thường gặp nhiều vướng mắc.
Các vướng mắc trong việc xác định tội danh liên quan đến hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản đã được thể hiện rõ trong các bản án thực tiễn áp dụng pháp luật.
1 Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.9-10
Bản án số 07/2017/HSST được ban hành vào ngày 24/02/2017 bởi Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, đã tiến hành xét xử phúc thẩm theo Bản án số 477/2017/HSPT vào ngày 11/9/2017 của Toà án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Công ty Công trình giao thông Đồng Tháp là doanh nghiệp Nhà nước Năm
Năm 2003, Nguyễn Thành Long được giao làm chỉ huy trưởng công trình tuyến dân cư Để có đất san lấp, Long đã thương lượng với các hộ dân xung quanh để mua đất, đưa ra giá 9.000đ/m2 cho đất mặt và 14.000đ/m2 nếu chuyển quyền sử dụng đất Tuy nhiên, các hộ dân chỉ đồng ý bán đất với giá từ 14.000đ/m2 đến 15.000đ/m2 Dù biết công ty quy định chỉ mua đất mặt và sẽ trả lại đất sau khi khai thác, Long đã thực hiện hành vi gian dối bằng cách báo cáo với Ban giám đốc công ty rằng giá mua đất mặt là từ 14.000đ/m2, nhằm chiếm đoạt diện tích đất ao mà không phải trả tiền.
Công ty thống nhất cho Long thực hiện mua đất mặt để san lấp với giá từ 14.000đ/m2 đến 15.000đ/m2 Đồng thời, công ty đã ký kết hợp đồng mua đất mặt với các hộ dân, trong đó cam kết sau khi khai thác lớp đất mặt xong sẽ trả lại đất ao cho dân.
Nguyễn Thành Long đã lập hồ sơ chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất ao mà công ty đã mua sau khi khai thác lớp đất mặt để san lấp công trình Các người bán đất, sau khi nhận đủ tiền theo thỏa thuận, đã đồng ý ký tên vào hồ sơ chuyển nhượng do Long chuẩn bị Vào ngày 04/06/2003, Long nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ UBND huyện T Tuy nhiên, bằng thủ đoạn gian dối trong việc nâng giá mua đất mặt, Nguyễn Thành Long đã chiếm đoạt 30.759m2 đất ao (đo đạc thực tế là 31.215,15m2) của Công ty.
Ngày 13/8/2012 Nguyễn Thành L đã chuyển nhượng toàn bộ phần đất chiếm đoạt với tổng diện tích 30.759m2 cho người khác
Tổng giá trị tài sản (đất ao diện tích 30.759m2, sau khi lấy đất mặt): là 184.554.000đ
Ngày 13/8/2012 Nguyễn Thành L đã chuyển nhượng toàn bộ phần đất chiếm đoạt với tổng diện tích 30.759m2 cho ông Võ Văn Đ3 - Bí thư xã T9, huyện T giá 40.000đ/m2, tổng thành tiền 1.230.360.000 đồng
* Phần quyết định của bản án:
Bị cáo Nguyễn Thành L đã bị tuyên bố phạm tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 278 và điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 cùng Điều 47 Bộ luật hình sự 1999 Hình phạt dành cho bị cáo là 02 năm tù giam.
* Nhận xét, đánh giá và vướng mắc đặt ra từ vụ án:
Trong vụ án này, Tòa án xác định rằng Nguyễn Thành L đã sử dụng thủ đoạn gian dối để nâng giá mua đất, chiếm đoạt 30.759m2 đất ao của Công ty, với diện tích thực tế là 31.215,15m2 Vấn đề phát sinh là xác định đối tượng của hành vi chiếm đoạt: liệu đó là diện tích đất ao hay số tiền chênh lệch giữa giá mua đất mặt và giá mua đứt Câu hỏi đặt ra là quyền sử dụng đất ao có phải là đối tượng của hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội tham ô hay không, và liệu Nguyễn Thành Long có thực sự có hành vi chiếm đoạt hay không, cùng với việc Công ty có bị thiệt hại hay không.
Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2018/HS-ST ngày 17 tháng 8 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận
Lê Vinh Chi, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, đã lợi dụng chức vụ của mình vào năm 2015 Ông cùng với ông Nguyễn Thanh Liêm, công chức Địa chính - Xây dựng của xã, đã bàn bạc để nhờ ông Trần Phi Hùng và ông Trương Văn Dự đứng tên giúp, nhằm làm hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hai thửa đất chưa sử dụng, thuộc quản lý của UBND xã Hàm Minh.
Ông Lê Vinh Chi đề xuất sử dụng quỹ đất của xã tại khu kinh tế Mũi Né, thuộc thôn Minh Thành, nhằm cấp đất sản xuất cho các hộ nghèo thiếu đất Đây là một giải pháp cụ thể nhằm thực hiện tiêu chí giảm nghèo trong chương trình xây dựng nông thôn mới.
Sau khi cho người phát dọn đất, Chi đã bàn bạc với Liêm để lập hồ sơ khống nhờ người khác đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Liêm đã sử dụng giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của ông Dự, ông Hùng để tạo file số hình thể và tọa độ 02 thửa đất, rồi chuyển dữ liệu cho ông Trần Hữu Thạnh tại văn phòng Đăng ký đất đai huyện Hàm Thuận Nam để lập bản đồ trích đo địa chính Ông Thạnh đã biên tập bản đồ mà không kiểm tra thực địa, căn cứ vào dữ liệu Liêm cung cấp Sau khi có bản đồ, Liêm đã giả chữ ký của ông Hùng và ông Dự để hoàn tất hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Ngày 26/4/2015, Liêm lập phiếu lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc đất và tiến hành công khai các trường hợp đủ điều kiện cấp giấy CNQSDĐ Cuối cùng, Liêm trình các giấy tờ cho ông Chi ký xác nhận và chuyển hồ sơ cho bộ phận một cửa của xã để đề nghị cấp giấy CNQSDĐ.
Ngày 03/8/2015, UBND huyện Hàm Thuận Nam có 02 giấy CNQSDĐ số CA.067416 cấp diện tích đất 47.708m2 đứng tên Trần Phi Hùng; giấy CNQSDĐ số
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (CNQSDĐ) số CA 067411 có diện tích 41.594m2 được cấp cho Trương Văn Dự Ông Liêm đã trực tiếp nhận 02 giấy CNQSDĐ và thông báo cho ông Chi, sau đó mang về giao cho ông Trần Văn Quế để cất giữ, không thông báo cho ông Hùng và ông Dự theo yêu cầu của ông Chi Do đó, ông Hùng và ông Dự hoàn toàn không biết về 02 giấy CNQSDĐ này, không biết diện tích đất nằm ở đâu và không có bất kỳ tác động nào đến đất.
Trong quá trình xây dựng nhà, ông Chi đã ủy quyền cho ông Đặng Hữu Lợi, bạn thân của mình, thực hiện công việc do không đủ tiền trả công và mua vật liệu Ông Chi đã đồng ý để ông Lợi sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số CA067416) đứng tên Trần Phi Hùng để thế chấp vay ngân hàng Ngày 31/8/2015, theo yêu cầu của ông Lợi, ông Liêm đã nhờ ông Trần Phi Hùng và vợ là Nguyễn Thị Thanh Linh đến Văn phòng công chứng huyện Hàm Thuận Nam ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đặng Hữu Lợi mà không nhận bất kỳ khoản tiền nào từ việc chuyển nhượng này.
Sau một thời gian, ông Chi gặp khó khăn về chi phí xây nhà, vì vậy ông Lợi đã thông báo cho ông Chi và được ông Chi đồng ý chuyển nhượng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số CA067411) đứng tên Trương Văn Dự để lấy tiền xây nhà Ông Lợi đã liên hệ với bà Võ Bảo Giang, và bà Giang đồng ý nhận chuyển nhượng Vào ngày 27/11/2015, theo yêu cầu của ông Lợi, ông Liêm đã nhờ vợ chồng ông Trương Văn Dự đến Văn phòng công chứng huyện Hàm Thuận Nam để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Võ Bảo Giang, nhưng không nhận khoản tiền nào từ bà Giang trong giao dịch này.
Vào ngày 16/11/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hàm Thuận Nam đã xác định giá trị của hai thửa đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Cụ thể, thửa đất với giấy CNQSDĐ số CA067416 có giá trị 954.160.000 đồng, trong khi thửa đất theo giấy CNQSDĐ số CA067411 có giá trị 831.880.000 đồng Tổng giá trị tài sản của hai thửa đất này là 1.786.040.000 đồng.
* Phần quyết định của bản án:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Vinh Chi phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”
Áp dụng: Khoản 3 Điều 281 Bộ luật Hình sự năm 1999 (khoản 3 Điều 356
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017) Điểm b, v, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015
Xử phạt: Bị cáo Lê Vinh Chi 7 (Bảy) năm tù và bị cáo Nguyễn Thanh Liêm
* Nhận xét, đánh giá và vướng mắc đặt ra từ vụ án thứ nhất và thứ hai:
Giải pháp nhằm định tội danh đúng đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản trong các tội phạm về chức vụ
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản trong các tội phạm về chức vụ
Từ các vụ án nêu trên, có thể nhận thấy ba vấn đề trong thực tiễn áp dụng pháp luật còn tồn tại vướng mắc Đó là sự không thống nhất trong quan điểm giữa các Tòa án và Viện kiểm sát, dẫn đến việc định tội danh không đồng nhất trong các vụ án có các dấu hiệu đặc trưng tương tự Những vấn đề này chưa được các cơ quan tư pháp trung ương hướng dẫn rõ ràng.
Vướng mắc đầu tiên liên quan đến việc xác định quyền sử dụng đất có phải là đối tượng của hành vi chiếm đoạt hay không Nếu quyền sử dụng đất không thuộc đối tượng chiếm đoạt, thì những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để gian dối trong việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bản thân hoặc người khác, sau đó chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chiếm hưởng số tiền từ giao dịch đó, sẽ bị định tội danh như thế nào?
Vướng mắc thứ nhất này có 02 vấn đề cần phải giải quyết:
Một là, quyền sử dụng đất có phải là đối tượng của hành vi chiếm đoạt tài sản hay không:
Quyền sử dụng đất không được coi là đối tượng của hành vi chiếm đoạt tài sản, mặc dù nó là tài sản theo Bộ luật dân sự Điều này xuất phát từ việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do nhà nước quản lý, không có sở hữu tư nhân Nhà nước chỉ trao cho người sử dụng đất một số quyền nhất định như chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, và thế chấp Các hành vi chiếm đoạt tài sản xâm hại đến quan hệ sở hữu tài sản được bảo vệ bởi luật hình sự, trong khi đất đai không thể tự sinh ra hay mất đi, cũng như không thể cầm nắm hay di chuyển Dù các bị cáo có thể dùng thủ đoạn để có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng điều này chỉ là thủ tục hành chính và không làm mất quyền sử dụng đất Nhà nước hoặc chủ sử dụng đất hợp pháp chỉ mất quyền quản lý trong một thời hạn nhất định, và hậu quả của tội phạm sẽ được khắc phục qua các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó chuyển nhượng đất và thu lợi nhuận, không cấu thành tội tham ô tài sản hay lạm dụng chức vụ chiếm đoạt tài sản Thay vào đó, đối tượng tác động của tội phạm ở đây là quyền sử dụng đất, không phải giá trị của quyền này Do đó, những người thực hiện hành vi này phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong quá trình thi hành công vụ.
- Vướng mắc thứ hai, phân biệt giữa vụ lợi, gây thiệt hại về tài sản và chiếm đoạt tài sản
Trong luật hình sự, thuật ngữ "vụ lợi" không được định nghĩa rõ ràng Tuy nhiên, theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng 2018, vụ lợi được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng vị trí của mình để thu lợi ích vật chất hoặc phi vật chất một cách không chính đáng.
Vụ lợi và chiếm đoạt tài sản là hai khái niệm khác nhau trong lĩnh vực pháp luật Chiếm đoạt tài sản là hành vi khách quan cấu thành tội phạm, trong khi vụ lợi là động cơ chủ quan thúc đẩy người có chức vụ thực hiện hành vi phạm tội Mặc dù người phạm tội chiếm đoạt tài sản thường vì vụ lợi và gây thiệt hại, nhưng vụ lợi không bao hàm hành vi chiếm đoạt Nếu một người có chức vụ vì vụ lợi mà làm trái công vụ mà không chiếm đoạt tài sản, họ có thể bị truy cứu tội lợi dụng chức vụ Ngược lại, nếu có hành vi chiếm đoạt tài sản, họ sẽ bị xử lý theo các tội danh như tham ô, lạm dụng chức vụ.
- Vướng mắc thứ ba: Phân biệt giữa lạm dụng và lợi dụng chức vụ quyền hạn
Lợi dụng chức vụ quyền hạn là hành vi sử dụng quyền lực trong phạm vi thẩm quyền để thực hiện hành vi trái pháp luật, trong khi lạm dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi vượt quá thẩm quyền được giao Việc phân định giữa hai khái niệm này thường gặp khó khăn, không chỉ dựa vào Bộ luật hình sự mà còn phải xem xét các văn bản quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của người có chức vụ Một câu hỏi đặt ra là nếu một người lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản không thuộc quản lý của mình, thì sẽ bị xử lý như thế nào?
Các vướng mắc trong việc định tội danh đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản trong các tội phạm về chức vụ có nguồn gốc từ nhiều lý do khác nhau.
Tội phạm về chức vụ thường có tính chất phức tạp với các dấu hiệu như vụ lợi, chiếm đoạt tài sản, lợi dụng chức vụ và lạm dụng chức vụ Hiện tại, các dấu hiệu này chưa được hướng dẫn rõ ràng bởi các cơ quan tố tụng trung ương, dẫn đến việc dễ nhầm lẫn trong việc định tội danh cho hành vi lợi dụng chức vụ và quyền hạn để chiếm đoạt tài sản.
Khác nhau về năng lực và trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng dẫn đến việc hiểu các dấu hiệu định tội của các tội phạm về chức vụ theo nhiều cách khác nhau Điều này dẫn đến sự không thống nhất trong việc định tội danh đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản trong một số vụ án liên quan đến tội phạm chức vụ.
Dựa trên nguyên nhân gây ra các vướng mắc, tác giả đề xuất Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết nhằm định tội cho nhóm tội phạm về chức vụ trong một số trường hợp cụ thể.
1 Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý, pháp luật không quy định quyền sở hữu tư nhân về đất đai nên quyền sử dụng đất không phải là đối tượng của hành vi chiếm đoạt tài sản Trường hợp người có chức vụ quyền hạn đã làm trái công vụ để được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định của pháp luật, sau đó đã chuyển nhượng cho người khác và chiếm hưởng số tiền chuyển nhượng thì không xử lý hình sự về Tội tham ô tài sản (Điều
Theo Bộ luật Hình sự (BLHS), tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 355 Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, có thể xử lý hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356) hoặc tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357).
Trong trường hợp người có chức vụ quyền hạn lợi dụng vị trí để gây thiệt hại về tài sản, việc xác định hành vi chiếm đoạt tài sản là rất quan trọng để phân loại tội danh chính xác Hành vi chiếm đoạt tài sản là yếu tố bắt buộc trong các tội danh như tham ô tài sản và lạm dụng chức vụ quyền hạn Đồng thời, yếu tố vụ lợi gây thiệt hại về tài sản cũng là điều kiện cần thiết trong tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thực hiện công vụ Do đó, cần có sự phân biệt rõ ràng giữa các hành vi này.
Nếu người phạm tội không thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, thì sẽ được xem xét định tội danh là lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.