1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo luật hình sự việt nam

88 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Định Tội Danh Đối Với Hành Vi Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn Hại Cho Sức Khỏe Của Người Khác Theo Luật Hình Sự Việt Nam
Tác giả Nguyễn Duy Hiến
Người hướng dẫn TS. Phan Anh Tuấn
Trường học Trường Đại Học Luật TP Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2019
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 88
Dung lượng 14,47 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC (12)
    • 1.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (12)
    • 1.2. Thực tiễn định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động (17)
    • 1.3. Các giải pháp định tội danh đúng đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp trạng thái (24)
  • CHƯƠNG 2. ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC (31)
    • 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự về trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác làm chết người (31)
    • 2.2. Thực tiễn định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp làm chết người (34)
    • 2.3. Các giải pháp để định tội danh đúng đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp làm chết người (43)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

TRONG TRƯỜNG HỢP NGƯỜI PHẠM TỘI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG

1.1 Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 2

2 Điều 134 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1 Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; đ) Có tổ chức; e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; i) Có tính chất côn đồ; k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân

2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%; c) Phạm tội 02 lần trở lên; d) Tái phạm nguy hiểm; đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này

3 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này; d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này

4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm: a) Làm chết người; b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

Theo Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác được xác định qua các dấu hiệu định tội cụ thể.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm hại cho sức khỏe của người

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể của người khác

Tội phạm gây ra nhiều hậu quả nguy hiểm cho xã hội, đặc biệt là qua các dạng thương tích và tổn hại về sức khỏe Thương tích, như vết rách cơ hay dập lá lách, để lại dấu vết trên cơ thể nạn nhân và làm suy giảm sức khỏe của họ Trong khi đó, tổn hại về sức khỏe không chỉ là những vết thương bên ngoài mà còn là sự rối loạn chức năng của các hệ thống trong cơ thể, như hệ tiêu hóa, tuần hoàn, hô hấp và thần kinh, dẫn đến tình trạng sức khỏe kém hơn cho nạn nhân.

Hành vi cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác được xem là tội phạm theo Điều 134 Bộ luật Hình sự, nếu thuộc một trong các trường hợp quy định.

- Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên;

Cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% có thể bị xử lý nghiêm khắc nếu thuộc các trường hợp sau: sử dụng vũ khí, gây thương tích cho hai người trở lên với tỷ lệ tổn thương từ 61% trở lên cho mỗi người, hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương 61% trở lên trong các trường hợp cụ thể Ngoài ra, nếu gây thương tích cho hai người trở lên với tỷ lệ tổn thương từ 31% đến 60% nhưng vẫn thuộc các trường hợp quy định, thì cũng sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật.

5 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Làm chết 02 người trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này

6 Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm

Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, các hành vi phạm tội được quy định bao gồm: a) Sử dụng khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây hại cho nhiều người; b) Dùng a-xít hoặc hóa chất nguy hiểm; c) Tấn công người dưới 16 tuổi, phụ nữ mang thai, người già yếu, ốm đau, hoặc những người không có khả năng tự vệ; d) Tấn công ông bà, cha mẹ, thầy cô, hoặc người nuôi dưỡng; đ) Thực hiện hành vi có tổ chức; e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; g) Thực hiện hành vi trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam, hoặc đang chấp hành án phạt; h) Thuê người gây thương tích cho người khác; i) Có tính chất côn đồ.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc của tội này

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện với lỗi cố ý

Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác được xác định dựa trên khái niệm định tội Theo GS.TS Võ Khánh Vinh, định tội danh là việc xác định và ghi nhận một cách pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong pháp luật hình sự.

Định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác là quá trình xác định và ghi nhận sự phù hợp pháp lý giữa các dấu hiệu của hành vi này và các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của luật hình sự.

Định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác là một trường hợp cụ thể, mang những đặc điểm riêng biệt của định tội danh.

Thực tiễn định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động

Định tội danh là một yếu tố then chốt trong giải quyết vụ án hình sự, ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định trách nhiệm hình sự và hình phạt cho hành vi cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe người khác Việc định tội danh sai có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, như không đảm bảo tính hợp lý của hình phạt và xét xử sai người sai tội Thực tiễn cho thấy, các cơ quan tố tụng thường gặp khó khăn trong việc định tội danh cho những hành vi có yếu tố kích động tinh thần và vi phạm pháp luật nghiêm trọng Do đó, những người tiến hành tố tụng cần có kiến thức lý luận vững chắc và khả năng phân tích, tổng hợp các yếu tố liên quan để áp dụng đúng các quy định pháp luật, từ đó đưa ra quyết định chính xác Một số vụ án điển hình sẽ được đề cập để minh chứng cho thực trạng này.

Bản án hình sự phúc thẩm số 08/2018/HS-PT của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn ngày 05/02/2018 liên quan đến ông Hoàng Văn L1, sinh năm 1968, cư trú tại Xóm C, xã Hòa T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn Ông L1, là cha của Hoàng Công M, thường xuyên có hành vi uống rượu, đánh chửi vợ con và đập phá đồ đạc trong nhà Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 24/8/2017, khi Hoàng Công M trở về nhà và phát hiện đồ đạc bị ông L1 phá hủy, anh đã rất tức giận khi thấy ông L1 yêu cầu con gái Hoàng Thị T2 đi phơi quần áo.

M đã bị ông L1 đánh, nên khi chạy ra sân, M thấy một đoạn gậy tre dài 1,27m và đã dùng gậy đập vào đầu ông L1 khiến ông ngã ra thềm M tiếp tục đánh ông L1 khi ông cố gắng phòng vệ, khiến ông phải chạy vào buồng M đuổi theo và tiếp tục đánh vào chân ông L1, khiến ông ngã ở cửa buồng Sau khi mọi người can ngăn, M dừng lại và ông L1 được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế huyện L.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 7917/17/TgT ngày 29/8/2017 của trung tâm pháp y tỉnh Bắc Giang kết luận dấu hiệu chính qua giám định gồm:

Vào ngày 05/02/2018, TAND tỉnh Lạng Sơn đã ban hành Bản án hình sự phúc thẩm số 08/2018/HSPT, liên quan đến vụ việc cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy tại nguồn: https://banan.thuvienphapluat.vn/ban-an/ban-an-082018hspt-ngay-05022018-ve-toi-co-y-gay-thuong-tich-trong-trang-thai-tinh-than-bi-kich-dong-manh-15354 (truy cập ngày: 15/11/2018).

- Thương tích vết thương đã khâu chưa cắt chỉ vùng thái dương phải: 2%;

- Thương tích tay phải bó bột rạch dọc cẳng bàn tay + X-quang: Gãy đầu dưới xương trụ phải: 8%

- Thương tích chân trái bó bột rạch dọc cẳng bàn chân + X-quang: Gãy 1/3 giữa sương mác trái, có mảnh rời: 5%;

Hoàng Văn L1 bị thương tích nghiêm trọng với vết thương ở 1/3 trên mặt trước cẳng chân phải, vết thương mắt cá ngoài cổ chân phải và mẻ mắt cá ngoài chân phải Chân phải của bệnh nhân được bó bột từ đùi đến bàn chân Kết quả X-quang cho thấy có gãy hai xương cẳng chân phải với nhiều đường gãy ở xương chày và gãy 1/3 dưới xương mác Theo bản tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích của Hoàng Văn L1 hiện tại là 31%.

Tại Phần xét thấy của Bản án có nhận định:

Bị cáo và người bị hại không kháng cáo về tội danh, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo là do ông Hoàng Văn L1 thường xuyên say rượu, mắng chửi và đập phá đồ đạc trong gia đình Vào ngày 24/8/2017, sau khi uống rượu, ông L1 đã tiếp tục hành vi bạo lực, dẫn đến việc bị cáo dùng gậy tre đánh lại, gây thương tích 31% cho ông L1 Hành động của bị cáo xuất phát từ sự kích động mạnh do bạo hành liên tục, do đó bị cáo bị xử phạt về tội Cố ý gây thương tích theo quy định của Bộ luật hình sự Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết tăng nặng mà không xem xét Nghị quyết số 41/2017/QH14, điều này không phù hợp.

Tòa án đã chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Hoàng Công M và người bị hại ông Hoàng Văn L1, đồng thời sửa đổi một phần bản án hình sự sơ thẩm số 97/2017/HSST ngày 29/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Lạng Sơn Cụ thể, áp dụng khoản 1 Điều 105 và điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, cùng với Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 và khoản 1 Điều 135.

1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015

Trong vụ án này, bị cáo đã phạm tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, ông Hoàng Văn L1 Ông L1 thường xuyên uống rượu, mắng chửi vợ con và đập phá đồ đạc, dẫn đến việc ông đã dùng tay đấm vào đầu bị cáo M Tuy nhiên, M đã không thể kiềm chế và đã dùng cây gây thương tích cho ông L1 Mặc dù có hành vi trái pháp luật từ nạn nhân, các cơ quan tố tụng cần xác định rõ M có thực sự bị kích động mạnh hay không Theo Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ, trạng thái tinh thần bị kích động là khi người phạm tội không hoàn toàn tự chủ Tuy nhiên, trong vụ án này không có dấu hiệu cho thấy M mất tự chủ; ngược lại, M đã có thời gian để giữ bình tĩnh, như khi ông L1 chạy vào buồng và M vẫn đuổi theo để đánh Thời gian này đủ để M kiểm soát hành vi của mình, vì vậy tác giả cho rằng M không bị kích động mạnh.

Tương tự như vụ án đầu tiên, TAND tỉnh Tây Ninh đã có cách hiểu tương đồng với TAND tỉnh Lạng Sơn, điều này sẽ được tác giả phân tích trong vụ án thứ hai.

Bản án hình sự phúc thẩm số 115/2017/HS-PT Tòa án nhân dân Tỉnh Tây Ninh ngày 25/9/2017 8 :

Diễn biến toàn bộ nội dung vụ án:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 01/8/2015, Tạ Công T rủ Lê Minh T1 cùng đến nhà bị cáo A để trộm gà sau khi uống rượu T1 đứng ngoài cảnh giới, còn T leo tường vào bắt gà Bị cáo A, tức giận vì gà thường xuyên bị mất trộm, đã cầm cây chĩa đuổi theo T Trong lúc đuổi, A bị trượt chân làm mũi chĩa đâm vào mông T T tiếp tục chạy lên tường rào nhưng bị A dùng chĩa đâm vào người T1 đã giúp T xuống đất và đưa T đến Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh cấp cứu, sau đó chuyển đến Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á T được điều trị đến ngày 17-12-2015 thì xuất viện Sau khi gây thương tích cho T, A đã đến Công an phường N đầu thú.

* Kết quả giám định thương tật:

Bản kết luận giám định pháp y số 61/2016/TgT, ngày 07-4-2016, từ T tâm Pháp y Sở y tế tỉnh Tây Ninh xác nhận tỷ lệ tổn thương cơ thể của Tạ Công T do thương tích gây ra hiện tại là 73%.

8 TAND tỉnh Tây Ninh, Bản án hình sự phúc thẩm số 115/2017/HSPT ngày 25/9/2017, nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta90602t1cvn/chi-tiet-ban-an (truy cập ngày: 15/11/2018)

Bản kết luận giám định pháp y số 112/2016/TgT, được ban hành vào ngày 30-6-2016 bởi Tâm Pháp y Sở Y tế tỉnh Tây Ninh, xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của Tạ Công T do thương tích gây ra.

+ Tỷ lệ tổn thương vùng bụng là 73%

+ Tỷ lệ tổn thương vùng mông là 01%

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng bao gồm một đoạn cây tầm vông dài 1,70m với đường kính 0,03m, một đầu có bịt ống sắt có lỗ trống, cùng với một cây sắt tròn dài 0,51m và đường kính 0,01m, đầu cây sắt được đập dẹp nhọn hình mũi tên Tất cả đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự T1 tại phố Tây Ninh để bảo quản và chờ xử lý theo quy định.

* Tại Phần xét thấy của Bản án có nhận định:

Lời khai của bị cáo phù hợp với vết thương của nạn nhân, bao gồm một vết thương ở vùng mông và một vết thương ở vùng bụng (dưới rốn) Hồ sơ bệnh án tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tây Ninh ghi nhận Tạ Công T nhập viện lúc 20 giờ ngày 01/8/2015 với chẩn đoán vết thương thủng ruột non và thủng trực tràng.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với kết luận giám định số 61/2016/TgT ngày 07/4/2016 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế tỉnh Tây Ninh thì

Tạ Công T có các dấu hiệu chính qua giám định gồm: 01 vết sẹo mổ đường giữa trên dưới rốn (16 x 1 cm), 01 vết sẹo vùng hố chậu trái (8 x 0,6 cm), 01 vết sẹo vùng gai chậu trước bên phải (2 x 1 cm), và 01 vết sẹo vùng mông bên trái (2 x 0,5 cm), tất cả đều lành tốt Bên cạnh đó, bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật cắt đoạn ruột non hồi tràng dưới 1 m và xử trí thủng trực tràng, hiện tại sức khỏe ổn định Tổng cộng có 4 vết sẹo, trong đó có 01 vết sẹo mổ để xử lý vết thương bụng do đâm thủng ruột non và thủng trực tràng, cùng với 02 vết sẹo dẫn lưu hậu môn tạm ra da.

Các giải pháp định tội danh đúng đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp trạng thái

Theo phân tích ở Mục 1.2, thực tiễn định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác khi người phạm tội ở trong trạng thái tinh thần bị kích động cho thấy cần phải hiểu và áp dụng thống nhất các dấu hiệu liên quan Nguyên nhân của vướng mắc này là sự không rõ ràng trong việc phân biệt giữa “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” và “trạng thái tinh thần bị kích động”.

Dấu hiệu "trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" trong các tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe theo Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện nay chưa được hướng dẫn cụ thể, mà chỉ có thể tham khảo từ Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

1985 mà theo Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thì văn bản này không còn hiệu lực

Năng lực và trình độ của người tiến hành tố tụng khác nhau có thể dẫn đến việc hiểu và áp dụng dấu hiệu “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo nhiều cách khác nhau, gây ra sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.

Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế nghiêm trọng, dẫn đến việc không kiểm soát được cảm xúc, từ đó làm giảm khả năng điều khiển hành vi Tuy nhiên, người trong trạng thái này vẫn còn khả năng kiểm soát hành vi của mình ở một mức độ nhất định.

Quan điểm thứ hai cho rằng, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình huống mà một người vẫn còn khả năng nhận thức nhưng đã mất khả năng tự chủ, tức là không thể kiềm chế và điều khiển hành vi của bản thân.

Quan điểm thứ ba cho rằng, khi một người trải qua tình trạng tinh thần bị kích động mạnh, họ không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như bình thường, mặc dù chưa mất hoàn toàn khả năng nhận thức Trong trạng thái này, họ mất khả năng tự chủ và không nhận ra được tính chất cũng như mức độ nguy hiểm của hành vi đối với xã hội, gần như là trạng thái của người điên Tuy nhiên, trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát và sau đó, tinh thần của họ sẽ trở lại bình thường như trước.

Cả hai quan điểm đều công nhận rằng trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể dẫn đến ức chế tâm lý, làm giảm khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi Tuy nhiên, vẫn tồn tại khả năng điều khiển hành vi trong trạng thái này Hai quan điểm này phù hợp với hướng dẫn tại điểm b Mục 1 Chương 2 Nghị quyết số 04/HĐTP TANDTC ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao.

Quy định về "trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" như một dấu hiệu định tội trong một số tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe có cơ sở lý luận rằng cảm xúc của người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm có thể được xem xét như yếu tố chủ quan Chỉ những cảm xúc liên quan đến quá trình chuẩn bị và thực hiện tội phạm mới được coi là yếu tố chủ quan, trong khi những cảm xúc như thỏa mãn hay hối hận sau khi phạm tội không thuộc về yếu tố này Mặc dù cảm xúc mạnh mẽ có thể làm giảm khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của người phạm tội, nhưng không làm mất đi hoàn toàn khả năng này Do đó, nhà làm luật đã quy định rằng trong một số trường hợp, cảm xúc trong quá trình thực hiện tội phạm có thể là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Để xác định đúng tội danh liên quan đến hành vi cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác, cần phân tích rõ nguyên nhân của các vướng mắc đã nêu Việc này giúp đảm bảo tính chính xác trong việc áp dụng pháp luật và bảo vệ quyền lợi của nạn nhân.

Trong trường hợp trạng thái tinh thần bị kích động, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm cải thiện tình hình Những giải pháp này được trình bày trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, trang 155-156.

Kiến nghị TANDTC ban hành văn bản hướng dẫn rõ ràng về dấu hiệu "trạng thái tinh thần bị kích động mạnh", thay thế việc tham khảo Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Nghị quyết số 04/HĐTP ngày

29/11/1986 Văn bản hướng dẫn mới

Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình

Sự kích động mạnh dẫn đến hành vi giết người thường xuất phát từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hành vi trái pháp luật của nạn nhân có thể mang tính chất đè nén và lặp đi lặp lại, tạo ra sự kích động âm ỉ kéo dài Khi hành vi trái pháp luật đó tiếp diễn, người bị kích động có thể mất khả năng tự kiềm chế Mặc dù sự kích động mới không được xem là mạnh khi tách riêng, nhưng nếu xem xét toàn bộ quá trình, nó có thể được coi là rất mạnh.

Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng cảm xúc mạnh mẽ, dẫn đến việc hạn chế khả năng nhận thức về nguy hiểm và hậu quả hành vi Mặc dù người phạm tội trong trạng thái này có khả năng kiểm soát hành vi kém hơn so với khi ở trạng thái tâm lý bình thường, nhưng họ vẫn không mất đi hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc kiểm soát hành vi của mình.

Sự kích động mạnh thường xuất phát từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, dẫn đến phản ứng phạm tội Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, lặp đi lặp lại, có thể tạo ra sự kích động âm ỉ kéo dài Khi hành vi trái pháp luật của nạn nhân tiếp diễn, người bị kích động có thể không kiềm chế được bản thân Nếu chỉ xem xét sự kích động mới, có thể không được coi là mạnh, nhưng khi nhìn nhận toàn bộ quá trình, sự kích động này có thể được đánh giá là mạnh hoặc rất mạnh.

Việc xác định trường hợp phạm tội là trong “trạng thái tinh thần bị kích động” hay

Để xác định "trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" của người phạm tội, cần xem xét một cách toàn diện các yếu tố như thời gian, hoàn cảnh, địa điểm, diễn biến và nguyên nhân của sự việc Mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội, cũng như trình độ văn hóa, chính trị, tính cách của mỗi bên, cũng đóng vai trò quan trọng Đặc biệt, mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi đó với tình trạng tinh thần bị kích động của người phạm tội cần được phân tích kỹ lưỡng.

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

Quy định của Bộ luật hình sự về trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác làm chết người

TRONG TRƯỜNG HỢP LÀM CHẾT NGƯỜI

2.1 Quy định của Bộ luật hình sự về trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác làm chết người

Theo Bộ luật Hình sự năm 2015, hành vi cố ý gây thương tích hoặc làm tổn hại đến sức khỏe của người khác dẫn đến tử vong được quy định tại điểm a khoản 4 và điểm a khoản 5 Điều 134.

Hiện tại, chưa có văn bản cụ thể hướng dẫn về dấu hiệu “làm chết người” trong Bộ luật Hình sự năm 2015 Để hiểu rõ hơn về dấu hiệu này, chúng ta có thể tham khảo dấu hiệu “thương tích dẫn đến chết người” được nêu trong Nghị quyết số 01/89-HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.

“Về thương tích dẫn đến chết người

Thương tích nặng có thể dẫn đến cái chết của nạn nhân khi có mối quan hệ nhân quả rõ ràng giữa chúng Chẳng hạn, một vết đâm vào hông có thể gây đứt tĩnh mạch, dẫn đến mất máu nghiêm trọng và cuối cùng là tử vong.

Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người có thể xảy ra ngay cả khi thương tích không nặng, đặc biệt khi nạn nhân là người già yếu hoặc mắc bệnh nặng Hành vi gây thương tích có thể khiến nạn nhân qua đời sớm hơn so với nếu họ không bị thương.

Trường hợp cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe dẫn đến cái chết của người khác có những đặc điểm sau: (1) Hành vi này xâm phạm sức khỏe chứ không xâm phạm tính mạng; (2) Hậu quả chết người xuất phát từ thương tích do hành vi cố ý gây ra; (3) Người phạm tội có lỗi trong việc gây ra hậu quả này.

10 Điều 134 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm: a) Làm chết người;

5 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Làm chết 02 người trở lên;

Trong trường hợp này, người phạm tội có lỗi hỗn hợp, tức là họ có ý thức cố ý khi thực hiện hành vi gây thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe của người khác, nhưng lại vô ý dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là cái chết của nạn nhân.

* Phân biệt trường hợp cố ý gây thương tích làm chết người với tội giết người (Điều 123 BLHS)

Giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác, xâm phạm đến sự sống của con người Tội phạm này nhắm đến con người đang sống, coi họ như một thực thể tự nhiên có quyền sống.

Tội giết người theo luật hình sự hiện hành được quy định với cấu thành tội phạm vật chất Đây là một tội phạm có tính nguy hiểm cao, vì vậy mặc dù có cấu thành tội phạm vật chất, dấu hiệu hậu quả chết người chỉ có ý nghĩa xác định thời điểm hoàn thành tội phạm Đặc biệt, hành vi giết người chưa làm nạn nhân vẫn cấu thành tội phạm và được xem là giết người chưa đạt.

Hành vi khách quan của tội giết người là việc tước đoạt trái phép tính mạng của người khác, tức là hành động tác động đến thân thể người khác với khả năng gây ra cái chết Để xác định tội danh và giai đoạn thực hiện tội phạm, hành vi khách quan cần phải là nguyên nhân dẫn đến hậu quả nạn nhân tử vong Đây là yếu tố quan trọng trong việc xác định tính chất của tội giết người.

Tội giết người được phân loại thành hai loại: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp Đối với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người và mong muốn điều đó xảy ra, do đó, nếu hậu quả chết người chưa xảy ra vì lý do khách quan, vẫn có thể định tội danh giết người ở giai đoạn chưa đạt Trong trường hợp lỗi cố ý gián tiếp, việc định tội sẽ phụ thuộc vào hậu quả thực tế; nếu hành vi gây ra cái chết, sẽ bị truy cứu tội giết người, còn nếu chỉ gây thương tích, sẽ bị truy cứu tội cố ý gây thương tích theo quy định của Bộ luật Hình sự Động cơ giết người không phải là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội giết người.

Như vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa trường hợp cố ý gây thương tích làm chết người (khoản 4 Điều 134 BLHS) với tội giết người (Điều 123 BLHS) là ở chỗ:

- Thứ nhất, trường hợp cố ý gây thương tích làm chết người xâm phạm sức khỏe của người khác, tội giết người xâm phạm tính mạng của người khác

Trong trường hợp cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, có sự tồn tại của lỗi hỗn hợp, bao gồm hành vi cố ý nhưng hậu quả lại vô ý Ngược lại, trong tội giết người, lỗi của người phạm tội hoàn toàn là cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.

Sự khác biệt giữa các tội danh là yếu tố quyết định trong việc xác định đúng tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe dẫn đến cái chết của người khác, nhằm tránh nhầm lẫn với tội giết người.

* Phân biệt trường hợp cố ý gây thương tích làm chết người với tội vô ý làm chết người (Điều 128 BLHS) 11

Tội vô ý làm chết người là hành vi vi phạm các quy tắc an toàn, dẫn đến cái chết của người khác Hành vi này xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng và sức khỏe của người khác.

Tội vô ý làm chết người được xác định là tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, bao gồm ba yếu tố chính: hành vi khách quan, hậu quả là cái chết và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả này.

Hành vi khách quan của tội phạm liên quan đến việc vi phạm các quy tắc chung nhằm bảo đảm tính mạng và sức khỏe con người Các quy tắc này có thể được quy định trong các văn bản pháp luật hoặc được thừa nhận rộng rãi Do đó, việc vi phạm các quy tắc an toàn trong các lĩnh vực cụ thể như an toàn giao thông, xây dựng, lao động và y tế cũng được coi là hành vi khách quan của các tội phạm khác.

Thực tiễn định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp làm chết người

Bản án hình sự phúc thẩm số 38/2017/HS-PT Tòa án nhân dân Tỉnh Gia Lai ngày 23/6/2017 12 có nội dung như sau:

Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 27/7/2015 tại quán nhà anh Trần Văn

T (làng Đ, xã K, huyện M, tỉnh Gia Lai) gồm có: Võ Anh T, Trần Công H, Lê Đức T, Huỳnh Cẩm T (cùng trú tại xã T, huyện T, tỉnh bình Định); Bùi Xuân

Q, Bùi Tấn N, Trần Trọng N, Cao Tiến L, Mai Quốc T, Nguyễn Thành T, Nguyễn Tú B và Trần Văn T (đều trú tại làng Đ, xã K, huyện M, tỉnh Gia Lai) cùng ngồi uống rượu với nhau Do đã uống nhiều bia rượu nên giữa Võ Anh T có xảy ra xô xát với Mai Quốc T nhưng được mọi người can ngăn và giải hòa Mai Quốc T cùng Nguyễn Tú B, Nguyễn Thành T về trước, Võ Anh

T cùng những người còn lại đi đến nhà Bùi Xuân Q (cùng ở làng Đ) tiếp tục uống rượu Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Mai Quốc T vẫn thấy bực tức vì bị

Võ Anh T đã gọi Nguyễn Tú B và Nguyễn Thành T để tìm Võ Anh T nhằm trả thù Trong quá trình này, Mai Quốc T mang theo một con dao chặt mía dài 114cm với lưỡi dao bằng kim loại dài 43cm, trong khi Nguyễn Thành T cầm một con dao chặt mía dài 124cm với lưỡi dao bằng kim loại dài 53cm.

Bản án hình sự phúc thẩm số 38/2017/HSPT của TAND tỉnh Gia Lai được ban hành vào ngày 23/6/2017, cung cấp thông tin quan trọng về vụ án Tài liệu này có thể truy cập qua đường dẫn https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta90602t1cvn/chi-tiet-ban-an, tuy nhiên, hiện tại trang web không thể hiển thị và người dùng được khuyến nghị liên hệ với quản trị viên để biết thêm thông tin.

Nguyễn Tú B cầm 01 con dao (loại dao độ chế) dài 89,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 56cm đến trước nhà Bùi Xuân Q

Mai Quốc T thấy Trần Văn T ở sân nên đã dùng dao chém Trần Văn T 2-3 nhát trúng tay và hông Trần Văn T bỏ chạy vào nhà kêu cứu, khiến Võ Anh T và một số người khác chạy ra Họ thấy Mai Quốc T cùng Nguyễn Tú B và Nguyễn Thành T mỗi người cầm dao đứng giữa sân nhà Bùi Xuân Q Mai Quốc T tiếp tục chém nhưng Trần Văn T đã tránh được và chạy vào nhà lấy một khúc gỗ dài 67,5cm Trần Công H cũng cầm một ống tuýp sắt dài 1,5 mét ra đứng đôi co với Mai Quốc T Bùi Xuân Q và Nghĩa đã can ngăn, đẩy Mai Quốc T ra ngoài đường, trong khi Võ Anh T cầm khúc gỗ đi theo Mai Quốc T.

Võ Anh T nghe thấy Mai Quốc T gọi điện thoại và hỏi về "thằng Ba S", sau đó đã có hành động đánh Mai Quốc T khiến điện thoại của anh ta rơi xuống đường Mai Quốc T phản ứng bằng cách dùng dao chém lại, nhưng bị Võ Anh T đánh rơi dao và phải bỏ chạy Tiếp theo, Võ Anh T cùng Trần Công H quay lại chỗ Nguyễn Tú B và Nguyễn Thành T, nơi Trần Công H dùng tuýp sắt tấn công Nguyễn Thành T Mặc dù Nguyễn Thành T đã giật lại tuýp sắt và tấn công, Trần Công H đã phải bỏ chạy Sau khi Nguyễn Thành T kéo Nguyễn Tú B ra chỗ để xe mô tô, Võ Anh T nhầm tưởng Nguyễn Tú B quay lại tấn công mình nên đã đánh vào đầu của B bằng khúc gỗ Sau đó, Trần Công H kéo Võ Anh T vào nhà Bùi Xuân Q, trong khi Bùi Xuân Q và Nguyễn Thành T phát hiện Nguyễn Tú B bị thương và đưa đi cấp cứu.

K, sau đó Nguyễn Tú B được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai và Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định Đến ngày 31/7/2015 thì Nguyễn Tú

Bệnh nhân B đã tử vong tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, theo kết luận giám định pháp y số 170/2015-PYTT ngày 06/8/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định Kết quả cho thấy có dấu hiệu chấn thương, bao gồm mũi có máu khô, xây xát da ở vùng trán thái dương phải, tụ máu dưới da đầu và vỡ lún xương sọ Nguyên nhân dẫn đến cái chết được xác định là do chấn thương sọ não, vỡ sọ và chảy máu nội sọ, mặc dù đã được điều trị nhưng không hồi phục.

* Tại Phần xét thấy của Bản án có nhận định:

Nguyễn Tú B nhập viện trong tình trạng hôn mê sâu và vẫn duy trì trạng thái này cho đến khi qua đời, theo hồ sơ bệnh án và xác minh tại bệnh viện.

Khi sử dụng cây gỗ sần sùi có kích thước lớn (dài 67,5cm; tiết diện từ 5x5 cm đến 5x2 cm) để đánh vào đầu anh Nguyễn Tú B, bị cáo đã nhận thức được khả năng gây ra cái chết cho nạn nhân Hành vi này đã dẫn đến cái chết của anh B, do đó, bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội.

Tội "giết người" thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tố tụng cấp tỉnh, trong khi các cơ quan tố tụng cấp huyện M có trách nhiệm điều tra, truy tố và xét xử bị cáo về tội danh này.

Hành vi "cố ý gây thương tích" đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, dẫn đến việc hủy bản án sơ thẩm Hồ sơ vụ án sẽ được giao cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh để tiến hành tố tụng lại theo quy trình chung.

* Tại phần Quyết định của Bản án:

Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 06/2017/HSST ngày 17/02/2017 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Gia Lai

* Nhận xét về bản án

Bản án sơ thẩm xác định bị cáo Võ Anh T đã phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến cái chết của nạn nhân B Cụ thể, bị cáo đã sử dụng một khúc gỗ lớn (dài 67,5 cm, tiết diện từ 5x5 cm đến 5x2 cm) để đánh vào đầu nạn nhân bằng một cú từ trên xuống.

Tác giả cho rằng việc xác định tội danh trong các vụ án liên quan đến thiệt hại về tính mạng và sức khỏe cần dựa vào ý thức chủ quan, động cơ và mục đích của người phạm tội Nếu bị cáo không khai báo rõ ràng về động cơ hoặc chỉ dựa vào lời khai của họ thì không đủ căn cứ để xác định tội danh Các yếu tố như hung khí, vị trí tấn công, mức độ quyết liệt của hành vi, lực tác động và hậu quả thực tế cần được xem xét để đánh giá ý thức chủ quan của bị cáo Nếu người phạm tội không có ý định tước đoạt tính mạng của nạn nhân và nạn nhân không chết, thì không thể kết luận họ phạm tội "giết người", mà có thể cấu thành tội "cố ý gây thương tích".

Hành vi của bị cáo đã dẫn đến cái chết của anh B, khi bị cáo dùng một khúc gỗ lớn dài 67,5 cm và có tiết diện từ 5x5 cm đến 5x2 cm để đánh vào đầu anh B.

Nếu người phạm tội chỉ có ý định gây thương tích cho nạn nhân mà không mong muốn dẫn đến cái chết, thì cái chết của nạn nhân không phải là mục đích của họ Để xác định mối quan hệ giữa thương tích và cái chết, cần phải có thương tật nặng gây ra cái chết, tức là phải có sự liên kết nhân quả giữa thương tích và cái chết của nạn nhân.

Các giải pháp để định tội danh đúng đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp làm chết người

Các bản án thứ ba, thứ tư và thứ năm trong Mục 2.2 của Luận văn đã chỉ ra những khó khăn trong việc xác định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc làm tổn hại sức khỏe người khác dẫn đến tử vong.

Cần thiết phải có hướng dẫn mới về các trường hợp cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe dẫn đến cái chết của người khác, thay thế cho hướng dẫn về dấu hiệu "thương tích dẫn đến chết người" theo Nghị quyết số 01/89-HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.

Cần có hướng dẫn rõ ràng để phân biệt giữa hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe dẫn đến cái chết của người khác và hành vi giết người.

Trong trường hợp có hành vi cố ý dẫn đến hậu quả vô ý làm chết người, cần phân biệt giữa hai tội danh: cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (theo điểm a khoản 4 Điều 134 BLHS) và tội vô ý làm chết người (theo Điều 128 BLHS) Việc xử lý hình sự sẽ phụ thuộc vào tính chất của hành vi và mức độ thiệt hại gây ra cho nạn nhân.

Nguyên nhân của vướng mắc nêu trên xuất phát từ các lý do sau:

Nghị quyết số 01/89-HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn về trường hợp cố ý gây thương tích “dẫn đến đến chết người” theo BLHS năm 1985 có sự khác biệt về hình thức so với “làm chết người” theo BLHS năm 2015 Sự khác nhau trong từ ngữ này dẫn đến sự không thống nhất trong việc hiểu quy định của BLHS, khiến cho việc tham khảo hướng dẫn trở nên khó khăn Hơn nữa, theo Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết 01/89-HĐTP chỉ có giá trị hướng dẫn cho BLHS năm 1985 và không thể áp dụng cho các quy định của BLHS năm 2015.

Chưa có văn bản nào hướng dẫn phân biệt giữa trường hợp cố ý gây thương tích dẫn đến chết người và các tội danh giết người hay vô ý làm chết người Tất cả các trường hợp này đều liên quan đến hành vi tác động đến thân thể nạn nhân và đều dẫn đến cái chết của họ Việc xác định đúng tội danh cho từng trường hợp cụ thể là một vấn đề phức tạp, chủ yếu dựa vào các dấu hiệu khách quan để nhận diện lỗi và ý thức chủ quan của người phạm tội trong mối quan hệ xã hội.

Tác giả đề xuất giải pháp cụ thể nhằm xác định đúng tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác, đặc biệt trong trường hợp dẫn đến cái chết, theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 và điểm a khoản 5 Điều.

134 BLHS) bằng cách TAND Tối cao ra nghị quyết hướng dẫn về trường hợp này theo hướng:

Hướng dẫn mới về trường hợp cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe dẫn đến chết người đã thay thế hướng dẫn trước đây về dấu hiệu “thương tích dẫn đến chết người” theo Nghị quyết số 01/89-HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.

Nghị quyết số 01/89-HĐTP ngày

19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán

Nghị quyết mới hướng dẫn BLHS hiện hành

Về thương tích dẫn đến chết người Về trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác làm chết người

Trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

Thương tích dẫn đến cái chết thường là những thương tích nghiêm trọng, trong đó có mối quan hệ nhân quả rõ ràng giữa thương tích và cái chết của nạn nhân Ví dụ, khi nạn nhân bị đâm vào hông, dẫn đến đứt tĩnh mạch hông, việc mất máu nhiều có thể gây ra cái chết cho nạn nhân.

Cố ý gây thương tích dẫn đến cái chết có thể xảy ra ngay cả khi thương tích không nặng, đặc biệt khi nạn nhân là người già yếu hoặc mắc bệnh nặng Trong trường hợp này, thương tích gây ra có thể làm cho nạn nhân qua đời sớm hơn, trong khi nếu không có thương tích, họ có thể vẫn sống Ngoài ra, việc cố ý xâm phạm sức khỏe của người khác mà không có ý định xâm phạm tính mạng nhưng vẫn gây ra thương tích dẫn đến cái chết cũng được coi là hành vi phạm tội nghiêm trọng.

Thương tích hoặc tổn thương cơ thể có thể dẫn đến cái chết của nạn nhân nếu có mối quan hệ nhân quả giữa chúng Chẳng hạn, một vết đâm vào hông có thể làm đứt tĩnh mạch, gây mất máu nghiêm trọng và dẫn đến tử vong.

Hành vi cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe có thể dẫn đến cái chết của nạn nhân, đặc biệt trong trường hợp nạn nhân là người già yếu hoặc mắc bệnh nặng Mặc dù những thương tích hoặc tổn hại sức khỏe này có thể không gây tử vong trong điều kiện bình thường, nhưng chúng lại khiến cho nạn nhân qua đời sớm hơn nếu không có sự can thiệp.

Kiến nghị hướng dẫn này đã giải quyết được các vấn đề vướng mắc nêu trên

Trong Bộ luật Hình sự năm 1985, cần bổ sung nội hàm khái niệm “cố ý gây thương tích dẫn đến chết người” thành “trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác làm chết người” theo quy định tại Điều 134.

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Sự bổ sung này làm cho trường hợp phạm tội đầy đủ hơn, chính xác hơn và đúng với quy định của BLHS năm 2015

Để đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và kiến nghị trong trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến tử vong, cần lưu ý những đặc điểm sau: (1) Hành vi này xâm phạm sức khỏe của nạn nhân, không xâm phạm tính mạng; (2) Hậu quả tử vong của nạn nhân xuất phát từ thương tích do hành vi cố ý gây ra; (3) Người phạm tội chỉ có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người; (4) Đây là trường hợp “hỗn hợp lỗi”, tức là người phạm tội có ý thức cố ý trong hành vi gây thương tích nhưng vô ý trong hậu quả tử vong.

Hướng dẫn phân biệt giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe dẫn đến chết người và tội giết người theo Điều 123 BLHS, cũng như tội vô ý làm chết người Việc xác định rõ ràng các yếu tố cấu thành tội phạm và mức độ lỗi là rất quan trọng trong quá trình xử lý pháp lý.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:11

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG  - Định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo luật hình sự việt nam
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG (Trang 1)
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Định hướng ứng dụng  - Định tội danh đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo luật hình sự việt nam
huy ên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Định hướng ứng dụng (Trang 2)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w