1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn theo luật tố tụng hình sự việt nam

104 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Định Giá Tài Sản Trong Trường Hợp Tài Sản Bị Thất Lạc Hoặc Không Còn Theo Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Tác giả Trần Hoàng Đông
Người hướng dẫn TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2019
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 104
Dung lượng 30,93 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN LẦN ĐẦU ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP TÀI SẢN BỊ THẤT LẠC HOẶC KHÔNG CÒN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ (12)
    • 1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự (12)
      • 1.1.1. Khái niệm định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự (12)
      • 1.1.2. Đặc điểm hoạt động định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự (14)
    • 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về định giá tài sản lần đầu (15)
      • 1.2.1. Căn cứ định giá tài sản (15)
      • 1.2.2. Hội đồng định giá tài sản (17)
      • 1.2.3. Thời hạn định giá tài sản (19)
      • 1.2.4. Tiến hành định giá tài sản (20)
      • 1.2.5. Kết luận định giá tài sản (21)
    • 1.3. Thực tiễn hoạt động định giá lần đầu đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự (22)
    • 1.4. Kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự (31)
  • CHƯƠNG 2. ĐỊNH GIÁ LẠI TÀI SẢN ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP TÀI SẢN BỊ THẤT LẠC HOẶC KHÔNG CÒN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ (35)
    • 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về định giá lại tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn (35)
      • 2.1.1. Căn cứ định giá lại tài sản (35)
      • 2.1.2. Trình tự, thủ tục định giá lại tài sản (36)
      • 2.1.3. Kết luận định giá lại tài sản (37)
    • 2.2. Thực tiễn hoạt động định giá lại tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự (38)
    • 2.3. Kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động định giá lại tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự (44)
  • KẾT LUẬN (21)
  • PHỤ LỤC (50)

Nội dung

ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN LẦN ĐẦU ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP TÀI SẢN BỊ THẤT LẠC HOẶC KHÔNG CÒN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Khái niệm, đặc điểm hoạt động định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự

1.1.1 Khái niệm định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự

Vào ngày 27/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) tại Kỳ họp thứ 10, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 Các Điều 215 đến 222 trong BLTTHS quy định cụ thể về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự.

Hiện nay, việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự được thực hiện theo Nghị định số 30/2018/NĐ-CP, thay thế Nghị định số 26/2005/NĐ-CP Nghị định mới đã tạo ra môi trường pháp lý thống nhất về thành lập, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng định giá tài sản, giúp các cơ quan chức năng thực hiện đúng trách nhiệm trong tố tụng Kết quả là, giá trị tài sản được xác định phù hợp với giá thị trường, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các tổ chức và cá nhân trong quá trình xử lý vụ án hình sự.

Từ trước đến nay, chưa có khái niệm thống nhất về định giá trong hoạt động tố tụng hình sự Pháp luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng không cung cấp định nghĩa cụ thể về định giá tài sản Các văn bản dưới luật liên quan, như Nghị định số 26/2005/NĐ-CP và Thông tư số 55, vẫn chưa làm rõ vấn đề này.

Ngày 22/6/2006, Bộ Tài chính đã ban hành hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP, tuy nhiên chưa làm rõ khái niệm định giá tài sản trong tố tụng hình sự Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 cũng không cung cấp định nghĩa cụ thể Định giá tài sản là hoạt động tố tụng do Hội đồng định giá thực hiện theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền như Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Chánh án và các thẩm phán Hội đồng định giá tài sản, theo quy định tại Nghị định số 30/2018, có trách nhiệm xác định giá trị tài sản nhằm làm căn cứ giải quyết vụ án hình sự.

Theo Điều 4 của Luật Giá năm 2012, "định giá" được hiểu là hành động mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thực hiện để quy định giá cho hàng hóa và dịch vụ.

Dựa trên các quy định từ Điều 215 đến Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Giá năm 2012, Nghị định 26/2005 và Thông tư số 55/2006 của Bộ Tài chính, tác giả định nghĩa định giá tài sản trong tố tụng hình sự là hoạt động do Hội đồng định giá tài sản thực hiện nhằm xác định giá trị tài sản theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.

Khi gặp vấn đề trong vụ án hình sự, cần xác định giá trị tài sản để chứng minh Ngoài khả năng và biện pháp điều tra của ĐTV theo quy định của BLTTHS, việc định giá tài sản là bắt buộc Định giá phải được thực hiện ngay sau khi cơ quan hoặc người định giá nhận Quyết định yêu cầu và tài sản cần định giá Hội đồng định giá có thể tiến hành tại cơ quan hoặc hiện trường vụ án Trong quá trình này, ĐTV và KSV có quyền tham gia nhưng phải thông báo trước cho người định giá Sau khi hoàn tất, Hội đồng định giá sẽ gửi bản kết luận định giá tài sản cho cơ quan yêu cầu.

1.1.2 Đặc điểm hoạt động định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự

Tài sản bị thất lạc hoặc không còn là những tài sản không còn thuộc quyền quản lý của chủ sở hữu, có thể không biết vị trí hoặc đã bị hư hỏng hoàn toàn Việc định giá tài sản này được thực hiện dựa trên tài liệu và chứng cứ liên quan đến nguồn gốc và giá trị của tài sản, khác biệt so với định giá tài sản còn nhìn thấy Ví dụ, tài sản bị đánh cắp hoặc hủy hoại như cháy nổ không thể xác định trực tiếp Định giá tài sản thất lạc có những đặc điểm chung với các tài sản khác nhưng cũng có những đặc trưng riêng biệt.

- Định giá tài sản là sự ước tính giá trị tài sản tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm

- Giá trị tài sản được biểu hiện chủ yếu bằng hình thái tiền tệ

- Định giá tài sản được thực hiện theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

- Định giá tài sản phải tuân thủ theo những tiêu chuẩn và phương pháp định giá theo quy định của pháp luật

Để định giá tài sản bị thất lạc hoặc không còn, cần có đầy đủ căn cứ xác định tài sản đó Những tài sản này phải nằm trong danh mục có thể định giá và có cơ sở xác định rõ ràng tại thời điểm định giá Đây là vấn đề cốt lõi trong quá trình định giá, khác với việc định giá tài sản dễ thấy, có thể quan sát và sử dụng các phương pháp khoa học kỹ thuật Việc định giá tài sản bị thất lạc hoặc không còn đòi hỏi sự chính xác và căn cứ vững chắc.

Khi tiến hành định giá tài sản "vô hình" không thể nhìn thấy, cần xác định rõ liệu tài sản đó đã bị thất lạc hoặc không còn tồn tại Điều này được thực hiện thông qua việc thu thập các tài liệu và chứng cứ trong quá trình điều tra vụ án hình sự, bao gồm kết quả khám nghiệm hiện trường, lời khai của nhân chứng, bị hại và những người có liên quan, cùng với các tài liệu khác.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về định giá tài sản lần đầu

1.2.1 Căn cứ định giá tài sản

Khi xác định giá trị tài sản trong vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ ra văn bản yêu cầu định giá tài sản Cơ sở pháp lý cho Hội đồng định giá tài sản là quyết định yêu cầu này Văn bản yêu cầu định giá cần bao gồm: tên cơ quan yêu cầu, họ tên người có thẩm quyền, tên Hội đồng định giá, thông tin và đặc điểm tài sản, tên tài liệu liên quan (nếu có), nội dung yêu cầu định giá, cùng ngày tháng năm yêu cầu và thời hạn trả kết luận định giá.

Sau khi nhận được yêu cầu định giá tài sản, Chủ tịch Hội đồng định giá phải tiếp nhận và lựa chọn các chuyên gia có kinh nghiệm phù hợp với loại tài sản cần định giá Để xác định giá trị tài sản, Hội đồng định giá cần dựa trên các căn cứ cụ thể theo quy định.

Theo Khoản 2, Điều 3, Thông tư số 43/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính, giá thị trường của tài sản được xác định là giá giao dịch phổ biến tại thời điểm và địa điểm định giá Giá này áp dụng cho tài sản cần định giá hoặc các tài sản tương tự.

Giao dịch phổ biến trên thị trường là hoạt động mua, bán tài sản diễn ra hợp pháp và công khai, với ít nhất 03 tài sản tương tự có giao dịch Mức giá giao dịch phổ biến được xác định từ nhiều nguồn, bao gồm giá thực tế của giao dịch thành công, giá niêm yết của tổ chức, cá nhân, và giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định Ngoài ra, giá được cung cấp bởi doanh nghiệp thẩm định giá cũng được xem xét, cùng với các tài liệu hợp pháp liên quan đến tài sản Các căn cứ khác về giá trị tài sản cần định giá bao gồm thông tin về mức độ sử dụng, quan hệ cung cầu, và ý kiến từ các cơ quan có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân có hiểu biết về tài sản.

Các quy định nêu trên là cơ sở để xác định giá trị tài sản, đặc biệt là trong trường hợp tài sản đã thất lạc hoặc không còn Việc định giá trong những trường hợp này chủ yếu dựa vào các tài liệu và chứng cứ liên quan đến tài sản cần định giá.

Lời khai của chủ sở hữu là rất quan trọng trong việc định giá tài sản, bởi họ nắm rõ đặc điểm và tình trạng của tài sản tại thời điểm cần định giá Dù tài sản có thể đã thất lạc hoặc không còn, thông tin từ chủ sở hữu vẫn giúp xác định nguồn gốc và giá trị tài sản Điều này là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền thu thập tài liệu liên quan, phục vụ cho quá trình định giá chính xác.

Lời khai của người làm chứng là thông tin quan trọng từ những người biết về tài sản đã bị thất lạc, bao gồm tình trạng và đặc điểm của tài sản tại thời điểm định giá Họ cũng có thể cung cấp thông tin về nguồn gốc và xuất xứ của tài sản, góp phần quan trọng vào việc thu thập chứng cứ phục vụ cho quá trình định giá.

Các hóa đơn và chứng từ liên quan đến tài sản là nguồn tài liệu quan trọng, giúp định giá tài sản trong trường hợp bị thất lạc hoặc không còn Những tài liệu này thường ghi rõ nguồn gốc, giá trị, đặc điểm và tình trạng của tài sản, bao gồm hóa đơn mua bán, giấy bảo hành, giấy xuất xưởng, và giấy đăng kiểm Nhờ vào các chứng từ này, việc định giá tài sản bị thất lạc trở nên dễ dàng và chính xác hơn.

1.2.2 Hội đồng định giá tài sản

Theo quy định từ Điều 215 đến Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự được quy định cụ thể Cụ thể, khoản 2 Điều 217 BLTTHS nêu rõ rằng Chính phủ sẽ quy định chi tiết về việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản, cùng với trình tự và thủ tục định giá tài sản Tuy nhiên, Bộ luật này không đưa ra quy định cụ thể về Hội đồng định giá tài sản.

Trước đây, Hội đồng định giá tài sản được quy định tại Điều 5, Chương 2 của Nghị định số 26/2015/NĐ-CP Hiện nay, quy định chi tiết về việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản được cập nhật trong Chương 2, Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ban hành ngày 07/3/2018.

Hội đồng định giá tài sản được thành lập ở ba cấp độ, bao gồm cấp huyện và cấp tỉnh, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân quyết định theo đề nghị của cơ quan tài chính cùng cấp Việc thành lập này nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình tố tụng, đảm bảo tính phù hợp và hiệu quả trong công tác định giá tài sản.

Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ban hành ngày 07/3/2018 quy định chi tiết về việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản, bao gồm Hội đồng định giá theo vụ việc và Hội đồng định giá thường xuyên Tuy nhiên, việc áp dụng quy định này còn phụ thuộc vào từng địa phương cụ thể, dẫn đến sự khác biệt trong cách thực hiện Mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể, nhưng quy định này vẫn phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Nghị định số 26/2005/NĐ-CP chưa quy định cách xác định tài sản có giá trị đặc biệt lớn để Hội đồng định giá tài sản ở Trung ương có thẩm quyền định giá, gây khó khăn trong quá trình này Tuy nhiên, Nghị định số 30/2018/NĐ-CP, ban hành ngày 07/3/2018, đã quy định chi tiết về việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản cấp Trung ương, xác định rõ phạm vi và các lĩnh vực định giá Đặc biệt, nghị định cũng quy định Hội đồng định giá ở Trung ương sẽ thực hiện định giá lại lần thứ hai khi có mâu thuẫn giữa kết luận định giá lần đầu của Hội đồng cấp tỉnh và kết luận định giá lại của Hội đồng cấp tỉnh.

Quy định hiện nay nhằm khắc phục tình trạng nhiều vụ án sau hai lần định giá đều được chuyển lên Hội đồng định giá tài sản ở Trung ương, kể cả những vụ án có giá trị tài sản nhỏ Sự khác biệt trong kết quả định giá giữa các Hội đồng chủ yếu xuất phát từ việc thực hiện không đúng quy trình và nguyên tắc định giá.

Theo Điều 10 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP, Hội đồng định giá tài sản có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cung cấp thông tin và tài liệu cần thiết cho việc định giá Hội đồng có thể thuê tổ chức giám định để kiểm tra tình trạng kinh tế - kỹ thuật và tỷ lệ chất lượng của tài sản, cũng như thuê doanh nghiệp thẩm định giá để thực hiện thẩm định giá tài sản Việc thuê các tổ chức này được quyết định trong các trường hợp cần thiết Hội đồng có quyền từ chối định giá nếu thời gian không đủ, điều kiện không đảm bảo, tài liệu không đầy đủ hoặc không có giá trị, hoặc yêu cầu định giá vượt quá chuyên môn của mình Đồng thời, Hội đồng cũng cần được đảm bảo về tài chính và cơ sở vật chất để thực hiện định giá theo quy định pháp luật.

Thực tiễn hoạt động định giá lần đầu đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự

bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự

Hiện nay, lĩnh vực định giá rất đa dạng, trong khi Hội đồng định giá còn hạn chế về năng lực, dẫn đến việc cần thuê thẩm định giá Thực tế cho thấy, giá trị tài sản thường được xác định dựa trên thông tin do doanh nghiệp cung cấp cho cơ quan thẩm định giá, sau đó Hội đồng ký hợp đồng và thuê thẩm định viên Việc thuê thẩm định giá ngày càng phổ biến, đặc biệt đối với các tài sản đặc thù mà Hội đồng không thể tự thực hiện Tuy nhiên, việc này cũng làm tăng chi phí định giá, dẫn đến nhiều vụ việc kéo dài do thiếu kinh phí Ví dụ, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sóc Trăng đã phải trả gần trăm triệu đồng cho việc định giá tài sản trong vụ án tham ô từ năm 2010 đến 2013, liên quan đến hóa chất xử lý nước thải.

Để đảm bảo tính nhất quán trong việc định giá tài sản, cần có quy định thống nhất về căn cứ tính khấu hao tài sản Hiện nay, một số địa phương áp dụng khác nhau các thông tư như Thông tư số 45/2013/TT-BTC và Thông tư số 162/2014/TT-BTC, dẫn đến sự không đồng nhất trong việc xác định khấu hao Hội đồng định giá thường dựa vào thời gian sử dụng để tính hao mòn, nhưng điều này có thể gây ra bất cập khi một số tài sản vẫn còn giá trị sử dụng tốt nhưng lại bị đánh giá thấp do cách tính này Điều này gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng trong việc xử lý các vụ án liên quan đến tài sản, đặc biệt là với tài sản bị thất lạc hoặc không còn, vì không thể xác định tình trạng thực tế của tài sản Kết quả là, việc tính hao mòn trở nên cảm tính và thường không chính xác, ảnh hưởng đến kết luận định giá.

Vào ngày 23/10/2018, Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đã xét xử vụ án trộm cắp tài sản liên quan đến bị cáo Châu Đ và Lâm T Vụ án xảy ra vào khoảng 23h ngày 31/01/2018, khi Đ và T quyết định tìm kiếm tài sản để trộm cắp nhằm mục đích tiêu xài Họ phát hiện một chiếc xe môtô Dream Trung Quốc, biển số 83 H5-9474, đang đậu bên hông nhà bà Trần Thị Lai mà không có ai trông coi T đứng ngoài canh đường trong khi Đ vào dẫn chiếc xe ra ngoài và bứt dây điện khóa xe để T nổ máy chở Đ bỏ trốn.

T chạy xe chở Đ đến nhà của Phương thuộc khóm Vĩnh Bình, Phường 2 để bán xe vừa lấy trộm với giá 800.000 đồng, lấy tiền chia nhau tiêu xài hết

Theo kết luận định giá số 10/KL-HĐĐGTS ngày 23/4/2018 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thị xã Vĩnh Châu, chiếc xe môtô biển số 83H5 - 9474 có giá trị còn lại là 2.500.000 đồng Mặc dù xe đã được sử dụng trong 10 năm, Hội đồng định giá đã không thực hiện khấu hao hay tính hao mòn theo quy định, mà lại định giá theo giá mới, điều này là không chính xác.

Trong quá trình điều tra và xét xử sơ thẩm, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, và lời khai này phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường cũng như lời khai của người bị hại Do đó, có đủ cơ sở để kết luận các bị cáo đã phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 Tòa án đã tuyên phạt bị cáo Châu Đ 02 năm tù giam và bị cáo Lâm T 01 năm tù giam.

Các bị cáo đã kháng cáo, dẫn đến Tòa án cấp phúc thẩm quyết định hủy bản án sơ thẩm để tiến hành điều tra lại Tòa án yêu cầu cấp sơ thẩm làm rõ các căn cứ xác định giá trị của tài sản được định giá.

Vụ án thứ hai liên quan đến bị cáo Lê Minh D, sinh năm 1987 tại huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu, bị xét xử theo bản án số 34/2018 vào ngày 19/11/2018 vì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Sự việc xảy ra vào năm 2017, khi bị cáo thực hiện hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.

Lê Minh D, cán bộ công an nhân dân tại phòng an ninh điều tra, đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách giả vờ thuê mượn xe ô tô và xe mô tô để cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân Từ ngày 21/7/2017 đến 21/10/2017, D đã nhiều lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trong đó có việc gặp anh H vào ngày 04/9/2017, thông tin gian dối về việc cần xe mô tô để cho bạn bè sử dụng D đã thỏa thuận thuê xe mô tô Honda Air Blade từ ngày 04/9 đến 06/9 với giá 750.000 đồng Ngay sau khi nhận xe, D đã cầm xe mô tô với số tiền 12.000.000 đồng để chi tiêu cá nhân Để che giấu hành vi cầm cố, D đã xin gia hạn hợp đồng thuê xe đến 21/10/2017 và đưa ra lý do đi công tác để né tránh việc trả xe Cuối cùng, vào ngày 14/12/2017, anh H đã làm đơn tố giác hành vi phạm tội của D.

Theo kết luận định giá tài sản số 45 ngày 11/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản tỉnh Bạc Liêu, việc định giá tài sản bị xâm phạm đã qua sử dụng hoặc có thay đổi về kết cấu cơ bản phải tuân theo Thông tư số 55/2006/TT-BTC Hội đồng sẽ tiến hành kiểm định và đánh giá chất lượng tài sản, đồng thời tính đến khấu hao phần đã sử dụng để xác định giá trị còn lại của tài sản.

Theo Thông tư số 126/2014/TT-BTC ngày 06/11/2014 của Bộ Tài chính, việc tính khấu hao tài sản cố định cho xe mô tô gắn máy là 10%/năm Đối với xe mô tô đã qua sử dụng không thu hồi được, cần căn cứ vào Thông tư số 55/2006 để hội đồng định giá thu thập lời khai và hồ sơ từ các bên liên quan nhằm xác định tài sản bị xâm phạm Thêm vào đó, theo Thông tư số 304/2016/TT-BTC ngày 15/11/2016, nguyên giá xe mô tô Honda Air Blade 125cc được áp dụng mức giá tính lệ phí trước bạ là 38.000.000 đồng/chiếc, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017.

Theo xác nhận từ Phòng Cảnh sát Giao thông tỉnh Bạc Liêu, xe mô tô biển kiểm soát 94K1-316.23 được đăng ký lần đầu vào ngày 09/11/2015 Tính đến ngày 04/09/2017, xe đã sử dụng được 1 năm 9 tháng 27 ngày, tương đương với mức hao mòn tài sản là 18,253% Giá trị còn lại của xe là 81,747%, dẫn đến giá trị bằng tiền của xe tại thời điểm 04/09/2017 là 31.063.860 đồng (từ 38.000.000 đồng x 81,747%).

Qua hai vụ án, rõ ràng việc tính hao mòn tài sản khác nhau giữa các địa phương, đặc biệt là đối với tài sản bị thất lạc hoặc không còn Khấu hao tài sản thường được tính theo tỷ lệ phần trăm hàng năm, điều này dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá chính xác hiện trạng và giá trị thực tế của tài sản Một tài sản có thể vẫn còn tốt nhưng lại có tỷ lệ hao mòn cao, trong khi tài sản khác có thể không tốt nhưng lại được định giá cao hơn thực tế.

Ở một số địa phương, quy trình thành lập Hội đồng định giá tài sản không thống nhất, ngay cả trong cùng một tỉnh, các huyện và thị xã có cách thức khác nhau Một số nơi, Chủ tịch UBND cấp huyện hoặc tỉnh quyết định thành lập Hội đồng định giá tài sản từ đầu năm, trong đó có lãnh đạo cơ quan tài chính làm Chủ tịch và chuyên viên về giá là thành viên thường trực Hội đồng này thực hiện định giá tài sản trong suốt năm cho đến khi có quyết định mới Ngược lại, ở những địa phương khác, Hội đồng chỉ được thành lập khi có yêu cầu định giá từ cơ quan tố tụng và sẽ giải tán sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

Hiện nay, việc định giá tài sản trong các lĩnh vực khác nhau gặp nhiều khó khăn do sự phân chia quản lý giữa các Bộ và cơ quan ngang Bộ Theo quy định của Luật Giá và luật chuyên ngành, mỗi Bộ quản lý các hàng hóa và dịch vụ riêng, như y tế, bưu chính viễn thông, xây dựng và đất đai Điều này dẫn đến tình trạng các cơ quan trưng cầu định giá không xác định được nơi yêu cầu, gây ra sự nhầm lẫn và kéo dài trong việc giải quyết các vụ án hình sự.

Vào thứ năm, Hội đồng định giá tài sản đối mặt với những bất cập liên quan đến quyền từ chối định giá và quyền yêu cầu cung cấp tài liệu Các điều kiện từ chối thực hiện định giá hiện còn quá chung chung và tùy nghi, dễ dẫn đến lạm dụng Cụ thể, việc từ chối định giá có thể xảy ra khi không đủ thời gian, điều kiện cần thiết, tài liệu không đầy đủ hoặc yêu cầu vượt quá chuyên môn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định thời gian định giá do tính phức tạp và thời gian cần thiết, nhưng nếu không có hướng dẫn cụ thể, Hội đồng định giá có thể từ chối định giá thường xuyên hoặc yêu cầu quá nhiều thông tin từ cơ quan có thẩm quyền, làm giảm tính chủ động của Hội đồng.

Kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn trong tố tụng hình sự

Hội đồng định giá cần được quy định rõ quyền thuê tổ chức giám định để thực hiện giám định tình trạng kinh tế - kỹ thuật và tỷ lệ chất lượng tài sản, nhằm phục vụ cho việc định giá tài sản Việc thiếu hành lang pháp lý cụ thể có thể dẫn đến kẽ hở và mâu thuẫn với các văn bản như Thông tư số 45/2013/TT-BTC và Thông tư số 162/2014/TT-BTC, vốn là cơ sở để Hội đồng xác định tình trạng và chất lượng tài sản Do đó, cần có quy định pháp luật cụ thể về đối tượng và phạm vi áp dụng khi Hội đồng được quyền thuê tổ chức giám định.

Hội đồng định giá có quyền thuê doanh nghiệp thẩm định giá để xác định giá trị tài sản, tuy nhiên cần quy định cụ thể để tránh chi phí cao và lạm dụng Việc thuê doanh nghiệp thẩm định giá có thể làm giảm vai trò của Hội đồng, dẫn đến tình trạng chỉ ký tên mà không thực hiện công việc thực tế, gây ảnh hưởng đến tính khách quan của kết luận định giá Do đó, cần xác định rõ các trường hợp cần thuê thẩm định giá và các trường hợp Hội đồng phải tự thực hiện để đảm bảo hiệu quả và tính minh bạch trong quy trình định giá.

Cần quy định rõ ràng về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan có thẩm quyền yêu cầu định giá và Hội đồng định giá để đảm bảo sau khi nhận yêu cầu định giá từ Cơ quan tiến hành tố tụng, Hội đồng định giá sẽ nghiên cứu và thông báo thời gian thực hiện định giá Việc này nhằm tránh tình trạng từ chối định giá một cách cứng nhắc, góp phần không làm ảnh hưởng đến hoạt động điều tra và xử lý tội phạm.

Kết luận định giá tài sản cần phải đi kèm với hồ sơ và kết quả thẩm định giá để các doanh nghiệp và cơ quan thẩm định giá có thể so sánh, đối chiếu, từ đó phát hiện thiếu sót và đánh giá kết luận một cách toàn diện và chính xác hơn.

Vào thứ năm, cần thiết phải có quy định thống nhất về căn cứ tính khấu hao tài sản trong định giá để tránh tình trạng hiện tại, khi một số địa phương áp dụng các thông tư khác nhau, như Thông tư số 45/2013/TT-BTC hoặc Thông tư số 162/2014/TT-BTC ngày 06/11/2014, gây khó khăn trong việc xác định giá trị tài sản.

Vào thứ sáu, kết luận định giá tài sản phải xác định chính xác giá trị tài sản tại thời điểm xảy ra tội phạm Kết luận này cần mang tính khẳng định, không được đưa ra những đánh giá mơ hồ hay chung chung về "khoảng" giá trị nào đó.

Để đảm bảo việc định giá tài sản tuân thủ nguyên tắc phù hợp với giá thị trường tại thời điểm và địa điểm tài sản bị xâm phạm, cần có quy định rõ ràng.

“Các mức giá từ các nguồn thông tin phải được điều chỉnh thống nhất về thời điểm bị xâm phạm và nơi tài sản bị xâm phạm.”

Để thống nhất cách tiếp cận và phương pháp định giá giữa các thành viên của Hội đồng định giá, cần quy định cụ thể về phương pháp định giá dựa trên thông tin và đặc điểm của tài sản Hội đồng định giá tài sản sẽ lựa chọn phương pháp phù hợp, có thể kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, đồng thời cần có quy định cho các tài sản đặc thù như tài sản chưa qua sử dụng, tài sản đã qua sử dụng, tài sản bị hủy hoại, và các tài sản không phổ biến trên thị trường Đặc biệt, tài sản bị thất lạc cần có phương pháp định giá rõ ràng để đảm bảo tính khách quan và hợp pháp trong quá trình xử lý.

Kết luận Chương 1 nhấn mạnh rằng định giá tài sản là hoạt động quan trọng do Hội đồng định giá thực hiện theo yêu cầu của các cơ quan tố tụng, nhằm xác định giá trị tài sản phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự theo quy định pháp luật Kết luận định giá tài sản không chỉ là căn cứ để khởi tố vụ án mà còn là chứng cứ quan trọng trong việc buộc tội hoặc gỡ tội, cũng như xác định thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra Tác giả đã tổng hợp các quy định pháp luật về định giá tài sản, quy trình thực hiện và thực tiễn áp dụng, đặc biệt là trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn Bài viết chỉ ra những khó khăn trong việc định giá tài sản trong những tình huống này, yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tố tụng và Hội đồng định giá Cuối cùng, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc và hạn chế trong thực tiễn định giá tài sản, nhấn mạnh rằng các quy định pháp luật hiện tại còn chung chung và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tiễn.

ĐỊNH GIÁ LẠI TÀI SẢN ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP TÀI SẢN BỊ THẤT LẠC HOẶC KHÔNG CÒN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:10

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ - Định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn theo luật tố tụng hình sự việt nam
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ (Trang 1)
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60380104  - Định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn theo luật tố tụng hình sự việt nam
huy ên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60380104 (Trang 2)
3 BLHS Bộ luật hình sự - Định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn theo luật tố tụng hình sự việt nam
3 BLHS Bộ luật hình sự (Trang 4)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN