HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Quy định của pháp luật về hành vi chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, kế thừa và phát triển từ quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi năm 2009).
Khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
1 Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,
Các điều 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này quy định rằng những người chưa được xóa án tích và vi phạm sẽ gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đặc biệt khi tài sản vi phạm là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được định nghĩa trong Bộ luật hình sự là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý Hành vi này bao gồm việc sử dụng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
Hành vi khách quan của tội phạm là những hành động có ý thức và ý chí của con người, được thể hiện ra bên ngoài qua các hình thức cụ thể, gây thiệt hại hoặc đe dọa đến xã hội Đặc biệt, trong tội lừa đảo, hành vi khách quan này thể hiện rõ nét qua các hành động nhằm lừa gạt người khác, dẫn đến tổn thất về tài sản hoặc quyền lợi.
Hành vi chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam được hiểu là việc chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác nhằm tạo ra khả năng định đoạt tài sản một cách gian dối Tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra khi người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để khiến chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin tưởng và trao tài sản cho mình Do đó, hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo được xác định là hành động lừa gạt nhằm chiếm đoạt tài sản một cách không hợp pháp.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo là việc chuyển giao tài sản trái phép từ người quản lý sang tài sản cá nhân thông qua các thủ đoạn gian dối.
Từ khái niệm nêu trên cho thấy hành vi chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có các đặc điểm sau:
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành động khiến chủ sở hữu mất khả năng thực hiện quyền sở hữu, đồng thời tạo điều kiện cho người chiếm đoạt thực hiện các quyền này Thực tế, chiếm đoạt tài sản diễn ra qua quá trình làm cho chủ tài sản không còn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản, trong khi người chiếm đoạt lại có được tài sản đó Nếu một hành vi chỉ khiến chủ sở hữu mất khả năng thực hiện quyền mà không có ai chiếm hữu tài sản, như việc đốt tài sản của người khác, thì không được coi là chiếm đoạt tài sản Về mặt pháp lý, hành vi chiếm đoạt không làm mất quyền sở hữu của chủ tài sản và cũng không trao quyền sở hữu cho người phạm tội.
Hành vi chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài được biểu hiện ở hai hình thức cụ thể như sau:
Khi tài sản bị chiếm đoạt thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của chủ sở hữu, hành vi chiếm đoạt thể hiện qua việc nhận tài sản từ người bị lừa dối Tại thời điểm nhận tài sản, kẻ phạm tội đã kiểm soát tài sản đó, trong khi nạn nhân không còn khả năng quản lý tài sản nữa Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xem là hoàn thành khi xảy ra hành vi này.
Khi tài sản bị chiếm đoạt thuộc quyền sở hữu của người phạm tội, hành vi chiếm đoạt thể hiện qua việc giữ lại tài sản mà lẽ ra phải giao đúng và đủ cho người bị lừa Nếu người bị lừa không thể nhận hoặc nhận nhầm tài sản, thì người lừa đảo đã chiếm hữu tài sản đó, dẫn đến việc người bị lừa mất tài sản Tội phạm được coi là hoàn thành tại thời điểm này.
- Thứ hai, tài sản bị chiếm đoạt phải đang có người quản lý
Tài sản bị thất lạc không thuộc đối tượng của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vì lúc này tài sản đã thoát ly khỏi sự quản lý của chủ sở hữu Thông thường, tài sản bị chiếm đoạt vẫn có người quản lý hợp pháp, như chủ tài sản hoặc người được ủy quyền Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tài sản có thể đang trong sự quản lý bất hợp pháp Ví dụ, khi B trộm cắp xe máy của A và sau đó C lừa đảo chiếm đoạt chiếc xe máy đó, thì chiếc xe đang trong sự quản lý bất hợp pháp của B.
- Thứ ba, hành vi chiếm đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp
Nghiên cứu hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cần thiết để phân biệt các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt với những tội phạm không có tính chất này, cũng như để phân định rõ ràng giữa các tội phạm sở hữu chiếm đoạt và các quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế không phải là tội phạm.
Hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo tài sản làm cho chủ sở hữu mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình Quá trình này không dẫn đến việc mất quyền sở hữu, mà chỉ làm giảm khả năng thực hiện các quyền cụ thể liên quan đến tài sản Đồng thời, người chiếm đoạt có được khả năng chiếm hữu và sử dụng tài sản đó.
Một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng hành vi chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội trước tiên có ý định chiếm đoạt tài sản và sử dụng thông tin gian dối để khiến chủ tài sản hoặc người quản lý tin tưởng Sau đó, hành vi nhận tài sản diễn ra khi chủ tài sản tự nguyện trao tài sản cho kẻ lừa đảo Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều vướng mắc trong việc xác định hành vi chiếm đoạt tài sản Để làm rõ những vấn đề này, tác giả đưa ra một số vụ án điển hình nhằm minh chứng cho các dấu hiệu định tội trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bản án số 196/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 của TAND TP Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn
Khoảng 20 giờ ngày 04/9/2018 Mạc Sơn A đến quán game K đường T, phường C, thành phố L để chơi game "Tài sửu lắc xúc xắc" khoảng 30 phút sau thì thua hết tiền ảo trong tài khoản game, nếu muốn chơi tiếp thì phải có tiền thật chuyển vào thành tiền ảo Quan sát xung quanh thấy anh Hoàng P là bạn bè quen biết cũng đang ngồi chơi game tại quán Mạc Sơn A liền nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh Hoàng P đem đi cầm cố lấy tiền để chơi game tiếp Mạc Sơn
Mạc Sơn A đã mượn xe mô tô của anh Hoàng P để giải quyết công việc riêng Tin tưởng nhau từ trước, anh Hoàng P đồng ý cho Mạc Sơn A mượn xe Sau đó, Mạc Sơn A điều khiển xe đến quán game T tại đường N, phường T, thành phố L, nơi anh gặp Vi Văn C, bạn chơi điện tử Mạc Sơn A nhờ Vi Văn C mang xe đi cầm cố để lấy tiền chuyển vào tài khoản game của mình Với sự tin tưởng, Vi Văn C đã đồng ý và đem chiếc xe mô tô của Mạc Sơn A đi cầm cố.
Bà Hoàng Thị L đã cho Mạc Sơn A vay 4.500.000 đồng để chơi game, số tiền này được cầm cố và chuyển vào tài khoản của Mạc Sơn A Vào lúc 22 giờ 30 phút cùng ngày, Mạc Sơn A đã nhận tiền.
Mạc Sơn A thắng 5.600.000 đồng và đã nhờ Vi Văn C rút 4.500.000 đồng từ tài khoản game để chuộc xe mô tô đã cầm cố Sau khi giao xe cho Mạc Sơn A tại quán T, Vi Văn C về nhà ngủ Tuy nhiên, đến 06 giờ ngày 05/9/2018, Mạc Sơn A tiếp tục thua hết tiền trong tài khoản game và lại nhờ Vi Văn C cầm cố xe với bà Hoàng Thị L để vay 4.500.000 đồng, nhằm nạp thêm vào tài khoản chơi game.
Mạc Sơn A 4.220.000 đồng để chơi game, số tiền còn lại để chi tiêu cá nhân Mạc Sơn A ngồi chơi game đến 14 giờ ngày 05/9/2018 thì thua hết tiền
Bản án số 196/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 của TAND thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn tuyên bố Mạc Sơn A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
* Nhận xét, đánh giá và vướng mắc đặt ra từ vụ án:
Trong vụ án này, HĐXX đã xác định rằng Mạc Sơn A đã có ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh Hoàng P để cầm cố lấy tiền phục vụ cho việc chơi game Do đó, bị cáo A bị kết luận phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tác giả nhấn mạnh rằng trong vụ án này, cần làm rõ hành vi chiếm đoạt của bị cáo A Việc A mang xe của bị hại đi cầm cố có thể không phải là hành vi chiếm đoạt mà chỉ là sử dụng trái phép tài sản Nếu A cầm cố xe để lấy tiền tiêu xài và sau đó chuộc xe về trả cho bị hại, thì rõ ràng hành vi này không được xem là chiếm đoạt Thực tế cho thấy A đã chuộc xe về, cụ thể là vào lúc 22 giờ 30 phút cùng ngày, A đã thắng được 5.600.000 đồng và nhờ Vi Văn C rút 4.500.000 đồng trong tài khoản game để chuộc xe mô tô vừa cầm cố.
Cần phân định rõ ranh giới giữa hành vi chiếm đoạt tài sản và hành vi sử dụng trái phép tài sản Chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý chuyển đổi trái pháp luật tài sản thuộc quản lý của người khác thành tài sản của mình Ngược lại, sử dụng trái phép tài sản là hành vi vì vụ lợi mà sử dụng tài sản của người khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà chưa được xoá án tích Hành vi này xâm phạm quyền sở hữu tài sản nhưng không ảnh hưởng đến quyền định đoạt tài sản, chỉ xâm phạm quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định Đây là điểm khác biệt giữa tội sử dụng trái phép tài sản và các tội xâm phạm sở hữu khác, bao gồm cả tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Hành vi sử dụng trái phép tài sản là việc khai thác công dụng và hưởng lợi từ tài sản mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu trong một khoảng thời gian nhất định Hành vi này không làm mất tài sản của chủ sở hữu, mà chỉ tạm thời làm cho họ không thể chiếm hữu và sử dụng tài sản trong thời gian đó Ví dụ, người phạm tội có thể tự ý lái xe của người khác để chở hàng và sau đó trả lại, hoặc sử dụng tài sản thuộc quyền quản lý của mình không đúng quy định, như thuyền trưởng sử dụng tàu của công ty để kiếm tiền cá nhân Sự khác biệt chính giữa hành vi này và các tội phạm chiếm đoạt là tài sản vẫn được trả lại cho chủ sở hữu sau khi hành vi trái phép kết thúc.
Để xác định A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần chứng minh A đã có hành vi cố ý chuyển đổi tài sản thuộc quản lý của người khác thành tài sản của mình Điều này có nghĩa là A đã thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản đó, chẳng hạn như bán xe hoặc cầm cố mà không có ý định chuộc lại, thay vì chỉ đơn thuần là sử dụng trái phép tài sản.
Vụ án này chỉ ra rằng việc áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gặp nhiều vướng mắc Cần thiết phải có hướng dẫn rõ ràng để phân biệt giữa hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo và hành vi sử dụng trái phép tài sản, nhằm nâng cao hiệu quả xử lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Bản án số 13/2019/HSST ngày 30/01/2019 của TAND huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa
Vào lúc 7h10’ ngày 28/8/2018, Nguyễn Ngọc H đã gọi điện cho hãng Taxi Mai Linh để đặt xe đi Hậu Lộc Sau khi nhận cuộc gọi, công ty Taxi đã cử Lê Đình B, sinh năm 1991, ở thôn 6, xã X, huyện H, tỉnh T, đến đón khách.
H chở anh B từ huyện L về nhà, theo hướng đi qua quán cắt tóc của anh Lê Đình S vào lúc 14h cùng ngày.
Vào năm 1972, tại thôn 3, xã N, huyện H, H đã nói với anh B dừng xe để vào quán lấy dáy tai, vì trước đây H thường bán vôi và hay ghé quán cắt tóc của anh S Sau khi hoàn tất, H nhìn thấy chiếc xe máy HONDA Dream BKS 36B2 – 50032 của chị Vũ Thị C, vợ anh S, dựng trước cửa quán và nảy sinh ý định chiếm đoạt H đã lừa anh S mượn chiếc xe máy với lý do cần lấy tiền nợ trong làng trong vòng 5 phút.
Anh S đã nhờ vợ là Vũ Thị C đưa chìa khóa xe cho H, và chị C đã giao chìa khóa với yêu cầu H đi nhanh Sau khi chiếm đoạt xe mô tô của chị C, H đã điều khiển xe đến thành phố Thanh Hóa để cầm cố nhưng không thành công do thiếu giấy tờ Vào ngày 10/9/2018, H đến nhà anh Lê Hải S và gặp Lê Xuân T, nơi H đã vay 4.000.000 đồng với hẹn một tuần sẽ trả, đồng thời giao xe mô tô Dream BKS 36B2 – 50032 cho T Số tiền vay được H đã tiêu xài cho cá nhân.
Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hành vi chiếm đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản bằng cách cung cấp thông tin gian dối để đánh lừa người quản lý tài sản Hành vi này dẫn đến việc người quản lý tự nguyện trao tài sản cho kẻ lừa đảo Để cấu thành tội phạm, người phạm tội phải thực hiện hành vi chiếm đoạt, tức là cố ý chuyển giao trái pháp luật tài sản thuộc sự quản lý của người khác thành tài sản của mình.
Trong thực tiễn xét xử, vẫn còn nhiều trường hợp mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa làm rõ hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo, như đã đề cập ở Mục 1.2 của Luận văn Các vướng mắc này cần được xem xét và giải quyết để nâng cao hiệu quả công tác xét xử.
Một số cơ quan tiến hành tố tụng vẫn chưa làm rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội, dẫn đến khả năng nhầm lẫn với các trường hợp khác và có thể gây ra định tội danh sai.
Sự khác biệt trong nhận thức về nghĩa vụ trả nợ và mục đích chiếm đoạt tài sản dẫn đến quan điểm khác nhau về tội danh Khi người thực hiện hành vi gian dối không thừa nhận mục đích chiếm đoạt, việc xác định ý định này trở nên phức tạp Nhiều ý kiến cho rằng không thừa nhận nghĩa vụ trả nợ đồng nghĩa với việc không có mục đích chiếm đoạt, do đó chỉ cần xử lý qua giao dịch dân sự Ví dụ, trong trường hợp vay tiền không có tài sản đảm bảo để đầu tư nhưng lại sử dụng vào mục đích khác, khi đến hạn không trả nợ có thể gây tranh cãi về việc có phải là hành vi gian dối hay không.
Chứng cứ trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường chủ yếu dựa vào lời khai của người bị hại, nhân chứng và bị can, mà ít có chứng cứ vật chất trực tiếp Điều này dẫn đến khó khăn trong việc chứng minh ý thức chiếm đoạt của người phạm tội, vì ý thức chủ quan chỉ được xác định khi người phạm tội thừa nhận và khai báo.
Các vướng mắc trong việc xác định hành vi chiếm đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau Những lý do này bao gồm sự phức tạp trong việc phân biệt giữa hành vi hợp pháp và trái pháp luật, cũng như sự thiếu hụt trong quy định pháp lý rõ ràng Thêm vào đó, sự khác biệt trong cách hiểu và áp dụng pháp luật giữa các cơ quan chức năng cũng góp phần làm gia tăng khó khăn trong việc xử lý các vụ việc liên quan đến tội phạm này.
Hiện tại, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo, điều này dẫn đến sự lúng túng trong việc xác định hành vi này.
Để xác định hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần làm rõ ý thức chiếm đoạt của người phạm tội, vì thời điểm xuất hiện ý thức này rất quan trọng trong việc định tội Nếu người phạm tội chỉ sử dụng thủ đoạn gian dối mà không có ý thức chiếm đoạt, thì không thể coi đó là lừa đảo, và tùy vào từng trường hợp, họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản hoặc chỉ bị xem xét trong quan hệ dân sự, kinh tế Tuy nhiên, việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội thường gặp khó khăn, đặc biệt khi họ không thừa nhận hành vi lừa đảo.
Khả năng và trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng khác nhau có thể dẫn đến việc hiểu hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo nhiều cách khác nhau, gây ra sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Dựa trên những nguyên nhân gây ra vướng mắc, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể để xác định chính xác hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo.
Kiến nghị TAND tối cao ban hành văn bản hướng dẫn về khái niệm hành vi chiếm đoạt tài sản trong Chương XVI của Bộ luật Hình sự năm 2015, nhằm phân biệt rõ ràng với các hành vi khách quan khác.
Hành vi chiếm đoạt tài sản được quy định trong các tội phạm từ Điều 168 đến Điều 175 thuộc Chương các tội xâm phạm sở hữu (Chương XVI) của Bộ luật Hình sự năm 2015 Những điều luật này nhằm bảo vệ quyền sở hữu tài sản của cá nhân và tổ chức, đồng thời quy định rõ ràng các hình thức vi phạm và mức xử phạt tương ứng.
2015 được hiểu là hành vi cố ý chuyển biến trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của người khác thành tài sản của mình
Hành vi chiếm đoạt tài sản được xác định khi có đủ ba điều kiện: thứ nhất, hành vi này khiến chủ sở hữu mất khả năng thực hiện quyền sở hữu tài sản, đồng thời cho phép người chiếm đoạt thực hiện các quyền đó; thứ hai, tài sản bị chiếm đoạt phải có người quản lý; và thứ ba, người thực hiện hành vi chiếm đoạt phải có lỗi cố ý trực tiếp.
Cơ sở hướng dẫn về hành vi chiếm đoạt tài sản dựa trên lý luận từ các giáo trình luật hình sự hiện hành, tuy nhiên TAND tối cao vẫn chưa có văn bản chính thức nào hướng dẫn áp dụng Việc này có ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, với các tội phạm không có tính chất chiếm đoạt, cũng như phân biệt giữa các tội phạm sở hữu chiếm đoạt và các quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế không phải là tội phạm.
Vào thứ hai, đã ban hành văn bản hướng dẫn xác định hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Trong trường hợp người phạm tội mang tài sản của bị hại đi cầm cố, cần phải chứng minh rằng hành vi này thực sự là hành vi chiếm đoạt tài sản.
THỦ ĐOẠN GIAN DỐI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Quy định của pháp luật về thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối, với đặc điểm nổi bật là việc sử dụng các phương thức cụ thể để đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản Người phạm tội có thể sử dụng nhiều cách khác nhau, như lời nói, giả mạo giấy tờ, hoặc giả danh người có chức vụ, nhằm tạo niềm tin để chủ sở hữu tự nguyện chuyển giao tài sản Thủ đoạn gian dối không chỉ là dấu hiệu riêng của tội phạm lừa đảo mà còn xuất hiện ở một số tội phạm khác Tuy nhiên, quy định pháp luật về thủ đoạn này còn hạn chế, dẫn đến khó khăn trong việc xác định thời điểm xảy ra Nghiên cứu thực tiễn xét xử cho thấy sự không thống nhất trong việc áp dụng, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục nhằm đảm bảo sự nhất quán trong áp dụng pháp luật.
Khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác….”
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được định nghĩa là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác thông qua những thủ đoạn gian dối Hành vi này bao gồm hai yếu tố chính: việc thực hiện các thủ đoạn lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản.
Thủ đoạn lừa dối là hành vi cố ý cung cấp thông tin sai lệch với mục đích khiến người khác tin rằng đó là sự thật Từ góc độ khách quan, hành vi này liên quan đến việc phát tán thông tin giả mạo Về mặt chủ quan, người thực hiện hành vi lừa dối nhận thức rõ thông tin không đúng sự thật nhưng vẫn mong muốn người khác chấp nhận nó như một sự thật.
Thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau Nghiên cứu các hình thức này không chỉ giúp định tội mà còn có giá trị quan trọng trong công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm.
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản thường xảy ra trước khi có giao nhận tài sản giữa người bị hại và người phạm tội Nếu thủ đoạn gian dối diễn ra sau khi tài sản đã được nhận, thì không được coi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản Trong những trường hợp cụ thể, hành vi gian dối này có thể được xem là che giấu tội phạm hoặc cấu thành tội phạm khác như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Để phân biệt giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cần xác định rõ thời điểm xảy ra thủ đoạn gian dối Thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo thường diễn ra trước khi chiếm đoạt tài sản, trong khi dấu hiệu gian dối trong tội lạm dụng tín nhiệm có thể xảy ra sau khi đã có sự tin tưởng từ phía bị hại Việc nhận diện đúng thời điểm và bản chất của các hành vi gian dối là rất quan trọng để phân loại chính xác hai tội danh này.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra khi người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước khi ký kết hợp đồng, mà thực chất, hợp đồng chỉ là hình thức giả tạo nhằm tạo lòng tin để người bị hại giao tài sản Khi người phạm tội nhận được tài sản từ hợp đồng, tội lừa đảo hoàn thành Hành vi giao kết giả tạo và nhận tài sản là những hành vi lừa dối và chiếm đoạt Thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là yếu tố quyết định việc chiếm đoạt thành công, do đó, hành vi gian dối là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra khi người phạm tội ban đầu không có ý định chiếm đoạt tài sản mà chỉ nhằm mục đích vay, mượn hoặc thuê tài sản hợp pháp Họ nhận tài sản thông qua hợp đồng mà không có ý thức chiếm đoạt Tuy nhiên, sau khi nhận tài sản, khi đến hạn trả, họ mới phát sinh ý định không trả lại hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp, dẫn đến việc chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS Để thực hiện ý định chiếm đoạt, người phạm tội có thể sử dụng các hành vi gian dối như giả mạo mất tài sản hoặc bỏ trốn, nhưng hành vi gian dối không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm này.
Việc xác định tội phạm chiếm đoạt tài sản cần xem xét liệu người phạm tội có hành vi ngay thẳng hay gian dối trước khi ký hợp đồng Tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản, trong khi tội phạm lạm dụng tín nhiệm dựa vào lòng tin của người sở hữu tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt.
Không phải mọi hành vi gian dối đều thể hiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Nếu hành vi gian dối đã được quy định trong Bộ luật hình sự thành tội phạm độc lập, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội danh tương ứng Ví dụ, hành vi gian dối trong cân, đong, đo, đếm để gây thiệt hại cho khách hàng thuộc tội lừa dối khách hàng theo Điều 198 BLHS năm 2015 Hoặc trong trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để tiếp cận tài sản, khiến chủ sở hữu hoặc người quản lý sơ hở, dẫn đến việc chiếm đoạt tài sản một cách công khai và nhanh chóng, thì đây là hành vi của tội cướp giật tài sản.
Theo Điều 173 BLHS năm 2015, hành vi trộm cắp tài sản được xác định khi người phạm tội thực hiện hành vi gian dối nhằm làm cho chủ sở hữu mất cảnh giác, từ đó dễ dàng chiếm đoạt tài sản Hành vi chiếm đoạt diễn ra một cách lén lút và được che giấu, không cho chủ sở hữu biết, thể hiện rõ bản chất của tội phạm này.
Trong một cửa hàng văn phòng phẩm, đối tượng A đã giả vờ hỏi mua nhiều mặt hàng và yêu cầu người bán đóng gói chúng vào thùng cactông Trong lúc người bán hàng mải mê chọn lựa và đóng gói, A nhanh chóng chiếm đoạt hai chiếc máy tính cá nhân và cất vào túi xách Sau đó, A biện minh rằng quên tiền ở nhà và yêu cầu người bán giữ lại hàng chờ A quay lại Tuy nhiên, khi người bán hàng kiểm tra lại thùng cactông, họ phát hiện ra rằng đã bị A chiếm đoạt tài sản.
Trong vụ án này, A đã thực hiện hành vi gian dối nhằm khiến chủ sở hữu mất cảnh giác và không chú ý đến việc quản lý tài sản Hành vi chiếm đoạt tài sản của A diễn ra một cách lén lút và được che giấu, không để chủ sở hữu phát hiện Do đó, A phạm tội trộm cắp tài sản, chứ không phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Một số vướng mắc trong thực tiễn xác định “thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác” trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Để làm rõ những vấn đề vướng mắc trong việc xác định thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo, tác giả trình bày một số vụ án điển hình nhằm minh chứng cho các khía cạnh này.
Kết luận số 223/KLĐT(CSĐT3) ngày 12/11/2014 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận
Bà Huỳnh Thị TA, cư trú tại Hàm Thắng, Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận, có mối quan hệ bà con với bà Bùi Thị H ở phường Phú Thủy, TP Phan Thiết, Bình Thuận Trong thời gian lưu trú tại nhà bà H, bà TA đã quen biết với ông Nguyễn Văn H, người có mối quan hệ thân thiết với bà H.
Bà H thường xuyên đến thăm nhà ông H và đã giới thiệu TA với ông H như một người chuyên cho vay đáo hạn ngân hàng Tuy nhiên, trong lần giới thiệu này, bà H không cung cấp đầy đủ họ tên của TA.
TA được bà H giới thiệu để vay tiền, sau đó đã gọi điện cho ông H, khẳng định mình là em của bà H và đề nghị vay 500.000.000 đồng không kỳ hạn với lãi suất 5%/tháng Ông H tin tưởng và đồng ý cho TA vay tiền vì đã biết trước và thấy TA sống tại nhà bà H TA đã lập một giấy vay mượn ghi rõ số tiền 500.000.000 đồng, mang tên Bùi Thị T, và giao cho ông H vào tháng 02/2009 Sau khi vay, TA đã thực hiện việc trả lãi đầy đủ, có lúc trả trực tiếp cho ông H.
H, có lúc đưa tiền nhờ bà H trả giùm Đến ngày 11/5/2009, TA trả phần gốc cho ông H 100.000.000 đ (Một trăm triệu đồng), sau đó TA và ông H gặp nhau viết lại giấy vay mượn tiền nhằm điều chỉnh số tiền gốc hiện tại Cũng như lần trước, TA tự nhận mình tên Bùi Thị T và viết “Tôi tên Bùi Thị T hiện ở số nhà 50C HV có mượn của anh Nguyễn Văn H số tiền là 400.000.000 đ (bốn trăm triệu đồng), người viết và ký tên Bùi Thị T” Sau khi viết giấy nhận nợ mới thì TA và ông H hủy bỏ giấy nhận nợ cũ
Ông H đã không nhận được lãi suất từ Huỳnh Thị TA như thỏa thuận ban đầu, và sau nhiều lần trì hoãn, ông phát hiện rằng tên thật của người mượn tiền không phải là Bùi Thị T mà là Huỳnh Thị TA Khi ông H yêu cầu trả nợ, bà TA từ chối và khẳng định không nợ ông Ngày 08/9/2010, ông H đã khởi kiện bà TA ra Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận để đòi lại 400.000.000 đồng Tại tòa, bà TA xác nhận tên thật của mình và phủ nhận việc nợ tiền Nhận thấy có dấu hiệu tội phạm, Tòa án đã đình chỉ vụ án và hướng dẫn ông H gửi đơn tố cáo đến cơ quan Công an để điều tra.
Bà Huỳnh Thị TA thừa nhận đã viết giấy mượn tiền của ông Nguyễn Văn H dưới tên Bùi Thị T nhưng không thừa nhận việc nhận tiền từ ông H Bà TA cho biết việc viết giấy mượn tiền là do bà Bùi Thị H nhờ, còn việc ai nhận tiền và cách thức nhận ra sao thì bà không biết Ngược lại, ông H khẳng định rằng trong các giao dịch mượn tiền, chỉ có ông và bà TA, ông trực tiếp đưa tiền cho bà TA mà không có ai khác chứng kiến, và bà TA không hề thông báo với ông về việc viết giấy mượn cho ai khác.
Theo kết quả giám định chữ viết, chữ ký trong “Giấy mượn tiền” của Bùi Thị T và “Bảng tường trình” do Huỳnh Thị A ký tại Cơ quan điều tra đều do cùng một người thực hiện.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh Bình Thuận đã xác định rằng hành vi của Huỳnh Thị TA có đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139, Bộ luật Hình sự năm 1999 Do đó, cơ quan này đã ra bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố Huỳnh Thị TA về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 3, Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999.
* Nhận xét, đánh giá và vướng mắc đặt ra từ vụ án:
Trong vụ án này, tác giả nhận thấy có hai vấn đề quan trọng mà Cơ quan điều tra chưa làm rõ: Thứ nhất, sự mâu thuẫn giữa lời khai của ông Nguyễn Văn H và bà Bùi Thị.
Bà Huỳnh Thị TA bị cáo buộc lợi dụng mối quan hệ với bà Bùi Thị H để vay tiền từ ông Nguyễn Văn H bằng thủ đoạn gian dối Cụ thể, bà TA đã không ghi tên mình trong giấy mượn tiền mà sử dụng tên của bà H nhằm chiếm đoạt số tiền vay Cơ quan điều tra kết luận rằng bà TA chưa chứng minh được mình là người nhận và thụ hưởng số tiền vay, dẫn đến đề nghị truy tố bà về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999 cho thấy Cơ quan điều tra chỉ tập trung vào hành vi gian dối của bà Huỳnh Thị TA trước khi nhận tiền từ ông Nguyễn Văn H Tuy nhiên, chưa có chứng cứ xác thực về mục đích chiếm đoạt tài sản của bà TA đối với ông H Đây là vấn đề then chốt để xác định liệu bà Huỳnh Thị TA có phạm tội hay không và nếu có, thì phạm tội gì.
Vụ án này đặt ra vấn đề về việc xử lý tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi một người có hành vi gian dối nhưng chưa chứng minh được mục đích chiếm đoạt Cần có văn bản hướng dẫn rõ ràng để áp dụng thống nhất khái niệm “thủ đoạn gian dối” trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Vụ án thứ sáu và nhận xét, đánh giá:
Bản án số 31/2010/HSPT ngày 26/11/2010 của Tòa án phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng
Vào năm 2007, vợ chồng Trần Thị Tuệ và Bùi Văn Hòa đã thế chấp quyền sử dụng đất và nhà tại số 89 đường Y Ngông, phường Tân Thành, Buôn Ma Thuột cho ngân hàng nông nghiệp để vay 600.000.000 đồng, cùng với 03 giấy đăng ký xe ô tô để vay thêm 150.000.000 đồng, tổng cộng 750.000.000 đồng với thời hạn 12 tháng Tuy nhiên, do tiêu xài cá nhân, họ không có khả năng trả nợ và dẫn đến mâu thuẫn, cuối cùng quyết định ly hôn Sau khi ly hôn, Tuệ đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà cho mình Đến tháng 05/2008, gần đến hạn thanh toán, Tuệ đã vay 700.000.000 đồng từ chị Phan Thị Hồng với lý do đáo hạn ngân hàng, hứa sẽ trả lại trong 2 ngày Sau khi trả nợ ngân hàng 663.000.000 đồng, Tuệ đã nói dối chị Hồng về việc không thể rút tài sản thế chấp và yêu cầu vay thêm 150.000.000 đồng, khiến chị Hồng lo lắng và đồng ý cho vay.
Tuệ đã trả nợ 150.000.000 đồng mà không lấy giấy tờ thế chấp, sau đó đến ngân hàng để lấy giấy tờ và xóa thế chấp Khi chị Hồng hỏi, Tuệ đã đưa giấy tờ thế chấp cho chị Chị Hồng yêu cầu Tuệ vay tiền từ các ngân hàng khác nhưng không thành công, trong khi đó chị Hồng mượn 10.000.000 đồng từ Tuệ Vào ngày 23/05/2008, chị Hồng yêu cầu Tuệ viết lại giấy vay tiền với số tiền 840.000.000 đồng và ghi lùi ngày vay Sau đó, Tuệ không thực hiện cam kết trả nợ và nói dối chị Hồng về việc bán nhà Tuệ nhờ Bùi Văn Hòa tìm Bùi Ngọc Dương để giúp giữ nhà bằng cách nhận vay khống 1,5 tỷ đồng, nhằm tránh việc chị Hồng khởi kiện Dương đồng ý và hai ngày sau, Tuệ đã đưa cho Dương đơn khởi kiện và giấy vay tiền, sau đó Hòa chở Dương đến Tòa án để nộp đơn Trong quá trình giải quyết vụ án, Tuệ đã cung cấp cho Dương hướng dẫn trả lời các câu hỏi liên quan đến vay mượn tiền và lãi suất.
* Nhận xét, đánh giá và vướng mắc đặt ra rừ vụ án:
Giải pháp nhằm áp dụng đúng “thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác” trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mục 1.2 của Luận văn đã nêu rõ những khó khăn trong việc thực thi quy định pháp luật về "thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác" liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cần có văn bản hướng dẫn rõ ràng để áp dụng pháp luật hình sự, nhằm xác định thời điểm bị cáo thực hiện "thủ đoạn gian dối" là trước hay sau khi nhận tài sản thông qua hợp đồng Điều này sẽ giúp phân định rõ ràng giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Cần có hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng pháp luật hình sự để phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội phạm chiếm đoạt tài sản khác, đặc biệt khi có yếu tố "thủ đoạn gian dối".
* Nguyên nhân của các vướng mắc nêu trên xuất phát từ các lý do sau:
Sự khác biệt trong năng lực và trình độ chuyên môn của các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến việc hiểu và áp dụng pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không thống nhất Một số cơ quan không làm rõ thời điểm hình thành ý định gian dối của bị cáo, dẫn đến kết luận sai về tội lạm dụng tín nhiệm Ngược lại, có những vụ án chỉ tập trung vào dấu hiệu gian dối trước khi nhận tài sản mà không làm rõ mục đích chiếm đoạt, gây ra sự nhầm lẫn trong việc xác định tội danh.
Việc xác định mục đích chiếm đoạt tài sản là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá tội phạm của một cá nhân Nếu cơ quan tố tụng không làm rõ được mục đích này, sự thay đổi lời khai của người bị hại, nhân chứng, bị can và các bên liên quan có thể ảnh hưởng lớn đến bản chất vụ án, thậm chí dẫn đến khả năng từ có tội chuyển thành vô tội.
Hiện nay, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về "thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác" trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự Điều này gây khó khăn trong việc phân biệt giữa tội lừa đảo và các tội chiếm đoạt tài sản khác cũng có sử dụng "thủ đoạn gian dối".
Dựa trên những nguyên nhân gây ra các vướng mắc, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể để áp dụng đúng cách thức "thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác" trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
TAND tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn để phân biệt rõ ràng giữa "thủ đoạn gian dối" trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Trong trường hợp người phạm tội có “thủ đoạn gian dối” chiếm đoạt tài sản thì truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
Nếu người phạm tội có ý định lừa đảo và thực hiện các thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản trước khi nhận được tài sản, họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Nếu người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản sau khi đã nhận, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự.
Cơ sở đề xuất hướng dẫn liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xuất phát từ việc người phạm tội nhận tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản một cách không ngay thẳng và hợp pháp Trước khi nhận tài sản, người phạm tội đã thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản Dấu hiệu của hành vi này bao gồm hai nội dung chính: Thứ nhất, người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối trước khi nhận tài sản; Thứ hai, thủ đoạn gian dối này nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác.
Cần phân biệt rõ giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mặc dù cả hai đều sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản Trong tội lừa đảo, người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối trước khi nhận tài sản, khiến nạn nhân tin tưởng giao tài sản cho họ Ngược lại, trong tội lạm dụng tín nhiệm, thủ đoạn gian dối được thực hiện sau khi người phạm tội đã nhận tài sản một cách hợp pháp, thông qua các hình thức như vay, mượn hoặc hợp đồng Hành vi gian dối chỉ diễn ra sau khi tài sản đã được giao, nhằm chiếm đoạt tài sản đó.
Kiến nghị TAND tối cao ban hành văn bản hướng dẫn nhằm phân biệt rõ ràng giữa “thủ đoạn gian dối” trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các tội chiếm đoạt tài sản khác có “hành vi gian dối”.
Trong trường hợp người phạm tội có “thủ đoạn gian dối” chiếm đoạt tài sản thì truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
Nếu một người thực hiện hành vi lừa đảo bằng cách sử dụng thủ đoạn gian dối để khiến người khác tin tưởng, dẫn đến việc chuyển giao quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản, họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Nếu người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để tiếp cận tài sản, thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS Thay vào đó, họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội chiếm đoạt tài sản tương ứng với phương thức mà họ đã sử dụng.