KHÁI QUÁT VỀ THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT, ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ VÀ ĐỐI TƢỢNG KHÔNG CHỊU THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT
Đối tƣợng chịu thuế và đối tƣợng không chịu thuế có vị trí, vai trò quan trọng
1.2.1 Vị trí, vai trò của đối tượng chịu thuế trong thuế tiêu thụ đặc biệt Đối tượng chịu thuế là hàng hóa, dịch vụ, tài sản, thu nhập hoặc những lợi ích vật chất khác mà sắc thuế tác động đến để phát sinh nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế 14 Đối tƣợng chịu thuế là một nội dung cơ bản của một đạo luật thuế Khi một sắc thuế đƣợc ban hành, một trong những vấn đề quan trọng nhất là các nhà làm luật phải xác định phạm vi áp dụng của nó, nghĩa là sắc thuế đó đánh vào hàng hóa, dịch vụ, thu nhập hay tài sản nào Và nội dung này thường được thể hiện thông qua quy định về đối tƣợng chịu thuế Đối với các sắc thuế gián thu, nếu hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tƣợng chịu thuế và hành vi tác động vào chúng của một chủ thể thỏa mãn điều kiện luật định (mà thường là hành vi sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh) sẽ làm phát sinh nghĩa vụ về thuế của chủ thể đó Điều này cũng có nghĩa: những quy định về đối tƣợng chịu thuế chính là sự thể hiện phạm vi tác động của sắc thuế theo ý chí của các nhà làm luật
Đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) bao gồm những hàng hóa và dịch vụ không thiết yếu, có khả năng gây hại cho môi trường và sức khỏe con người, đồng thời tiềm ẩn nhiều rủi ro cho xã hội Nhà nước quy định các đối tượng này nhằm định hướng tiêu dùng và phát sinh nghĩa vụ thuế cho các chủ thể sản xuất, nhập khẩu, và kinh doanh Vai trò của đối tượng chịu thuế TTĐB rất quan trọng trong việc quản lý và điều tiết thị trường, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường.
Theo phân tích, quy định về đối tượng chịu thuế xác định phạm vi áp dụng của thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) Hiện tại, chỉ có 10 loại hàng hóa và 6 nhóm dịch vụ được quy định tại Điều 3 Luật thuế TTĐB 2008 mới chịu sự điều tiết của sắc thuế này.
14 Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017), tlđd (1), tr.48
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) có phạm vi hẹp và số lượng đối tượng chịu thuế xác định, nhằm điều tiết thu nhập và định hướng tiêu dùng của nhà nước Chỉ những hàng hóa, dịch vụ mà việc tiêu dùng bị coi là cần hạn chế mới phải chịu thuế TTĐB, trong khi các thuế gián thu khác như thuế xuất nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng có phạm vi rộng hơn nhiều.
Đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) thể hiện bản chất của loại thuế này, đồng thời phản ánh quan điểm của các nhà làm luật về việc định hướng tiêu dùng và tình hình kinh tế - xã hội hiện tại.
Đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) bao gồm hàng hóa và dịch vụ có khả năng gây hại cho sức khỏe, môi trường hoặc mang tính xa xỉ, không cần thiết Thuế TTĐB là một loại thuế gián thu nhằm tăng giá bán sản phẩm, từ đó hạn chế tiêu thụ hoặc khuyến khích tiêu dùng tiết kiệm và hiệu quả Tuy nhiên, việc xác định hàng hóa, dịch vụ nào cần hạn chế phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội và quan điểm của các nhà làm luật Một sản phẩm có thể được coi là "có hại" ở quốc gia này nhưng lại được khuyến khích ở quốc gia khác Mặc dù nhiều sản phẩm gây tác động tiêu cực nhưng việc cấm chúng không khả thi do những lý do như khó quản lý hoạt động kinh doanh trái phép hoặc tác động tiêu cực đến nền kinh tế và ngân sách Do đó, thuế TTĐB là biện pháp hiệu quả để quản lý sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh và tiêu dùng những hàng hóa này.
1.2.2 Vị trí, vai trò của đối tượng không chịu thuế trong thuế tiêu thụ đặc biệt Đối tượng không thuộc diện chịu thuế là các hàng hóa, dịch vụ, tài sản hoặc thu nhập có các điều kiện, đặc tính tương tự như đối tượng chịu thuế nhưng không chịu tác động của sắc thuế đó (nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của văn bản thuế đó) 15
Mối quan hệ giữa quy định về đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế tương tự như mối quan hệ giữa quy định chung và ngoại lệ trong các văn bản pháp luật Thực tế cho thấy, một số hàng hóa, dịch vụ và tài sản, mặc dù về hình thức bên ngoài có thể đáp ứng các điều kiện và đặc tính của đối tượng chịu thuế, nhưng vẫn không bị đánh thuế.
15 Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017), tlđd (1), tr.55
Đối tượng không chịu thuế TTĐB là những hàng hóa, dịch vụ được quy định trong danh mục đối tượng chịu thuế nhưng thỏa mãn một số điều kiện luật định, do đó không phát sinh nghĩa vụ thuế Việc xác định rõ đối tượng không chịu thuế là rất quan trọng, vì nếu áp dụng thuế cho những hàng hóa, dịch vụ này, mục đích của sắc thuế sẽ không đạt được hiệu quả Những quy định này giúp xác định trách nhiệm và nghĩa vụ thuế của các chủ thể, đồng thời đảm bảo rằng những hành vi tác động vào các hàng hóa, dịch vụ này không nằm trong phạm vi điều chỉnh của thuế TTĐB.
Đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) bao gồm hàng hóa và dịch vụ tương tự như đối tượng chịu thuế, với 10 nhóm hàng hóa và 6 nhóm dịch vụ Những sản phẩm này, mặc dù mang tính xa xỉ và có thể gây ô nhiễm môi trường, lại được nhà làm luật loại trừ khỏi phạm vi áp dụng thuế TTĐB do thuộc các trường hợp đặc biệt về chủ thể, mục đích và khu vực sử dụng Vì vậy, hành vi tác động vào những đối tượng này không phát sinh nghĩa vụ thuế cho các chủ thể liên quan.
Thứ hai, đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) cũng phản ánh bản chất của loại thuế này, đồng thời thể hiện quan điểm của các nhà lập pháp về định hướng tiêu dùng và bối cảnh kinh tế - xã hội hiện tại.
Theo Điều 3 của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) 2008, có 16 trường hợp mà hàng hóa quy định tại khoản 1 Điều 2 không thuộc diện chịu thuế Những trường hợp này cần được xem xét kỹ lưỡng để xác định rõ các đối tượng không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.
Các trường hợp hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) phản ánh quan điểm của nhà làm luật về tiêu dùng, cho thấy rằng những sản phẩm này không mang tính xa xỉ hay gây hại cho sức khỏe, môi trường Việc không đánh thuế những đối tượng này không chỉ phù hợp với bản chất của thuế TTĐB mà còn mang lại lợi ích kinh tế, xã hội cho quốc gia Điều này cũng thể hiện sự thích ứng với điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại, khẳng định rằng quy định về đối tượng không chịu thuế không chỉ dựa trên ý chí của nhà lập pháp mà còn phải phù hợp với thực tiễn đất nước.
Chương 1 tác giả đã tập trung chứng minh những vấn đề sau:
Thuế TTĐB là một loại thuế đánh vào hàng hóa, được xây dựng dựa trên lý luận và thực tiễn, với những đặc điểm riêng biệt giúp phân biệt với các sắc thuế gián thu khác Nó đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam Đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế là hai thành phần quan trọng, có mối quan hệ gắn kết với nhau Mặc dù mỗi đối tượng có những đặc điểm riêng, nhưng chúng phối hợp để phát huy vai trò của thuế TTĐB Việc xác định phạm vi điều chỉnh của thuế không chỉ dựa vào đối tượng chịu thuế mà còn cần xem xét đối tượng không chịu thuế, phản ánh bản chất của thuế TTĐB, quan điểm định hướng tiêu dùng của các nhà lập pháp và tình hình kinh tế - xã hội của quốc gia.
Chương I cung cấp cái nhìn tổng quan về thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), bao gồm các đối tượng chịu thuế và không chịu thuế, từ đó tạo nền tảng cho việc phân tích sâu hơn trong các chương tiếp theo.
“cơ sở hình thành các quy định pháp luật về đối tượng không chịu thuế” ở chương 2, là chương trọng tâm của khóa luận
CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHÔNG CHỊU THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT
Cơ sở chính trị - pháp lý hình thành quy định pháp luật về đối tƣợng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
2.1.1 Cơ sở chính trị Điều 4 Hiến pháp 2013 đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân… là lực lƣợng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” Đảng ta thông qua vai trò lãnh đạo nói trên đã nâng tầm ý chí của mình lên thành các quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành Vì thế, pháp luật Việt Nam thực chất là sự thể chế hóa các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Do đó, khi nghiên cứu bất kỳ quy định nào trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng không thể bỏ qua cơ sở chính trị - những chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng Đó chính là nguyên tắc mang tính cốt lõi khi ban hành mỗi đạo luật Những quy định về các trường hợp không chịu thuế TTĐB cũng không là ngoại lệ Thực chất, quy định về đối tƣợng chịu thuế, không chịu thuế, thuế suất và các vấn đề khác của thuế TTĐB cuối cùng cũng nhằm mục đích thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng trong phát triển kinh tế
- xã hội, tuyệt đối không đƣợc trái với các Nghị quyết của Đảng Điển hình, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế theo nguyên tắc công bằng và đồng bộ nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất và kinh doanh Chính sách thuế cần được điều chỉnh theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu và điều tiết hợp lý thu nhập Những điều này là cơ sở chính trị để Quốc hội ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008, thay thế cho luật năm 1998.
17 Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10/4/2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010
Vấn đề này không chỉ mang giá trị tư tưởng mà còn được ghi nhận trong nguyên tắc hiến định và luật pháp Điều 4 của Hiến pháp 2013 cùng với các quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 nhấn mạnh rằng đường lối và chủ trương của Đảng là cơ sở thiết yếu trong việc xây dựng và ban hành quy phạm pháp luật Do đó, quy định về đối tượng không chịu thuế TTĐB cần phải dựa trên những cơ sở này.
Một trong những nguyên tắc quan trọng trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là quy phạm thuế TTĐB, là đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất trong hệ thống pháp luật Điều này cũng áp dụng cho quy định về đối tượng không chịu thuế TTĐB, yêu cầu không được trái với các quy định có hiệu lực pháp lý cao hơn và phải thống nhất với các quy định pháp luật khác có hiệu lực tương đương Việc đảm bảo hai yếu tố này không chỉ giúp tuân thủ các nguyên tắc thu thuế mà còn hỗ trợ lý thuyết thuế tối ưu đã được phân tích.
Cơ sở pháp lý theo chiều dọc quy định rằng các đối tượng không chịu thuế TTĐB phải tuân thủ các quy định pháp lý có hiệu lực cao hơn, với Hiến pháp 2013 là văn bản pháp lý tối cao của Việt Nam Mọi quy định pháp luật, bao gồm thuế TTĐB, cần phải phù hợp với Hiến pháp và được ban hành dựa trên các nguyên tắc của nó, nhằm đảm bảo thực hiện các quy định pháp luật một cách hiệu quả.
Theo khoản 2, Điều 32 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật số 80/2015/QH13) ngày 22/6/2015, việc đề nghị xây dựng luật và pháp lệnh cần dựa trên các căn cứ như đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước.
19 Khoản 1 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật số 80/2015/ QH13) ngày 22/6/2015
20 nguyên tắc của Hiến pháp Vì thế, quy định về những trường hợp không chịu thuế TTĐB cũng không phải là ngoại lệ
Trong một nhà nước dân chủ, việc quyết định thuế và nghĩa vụ tài chính thuộc về cơ quan đại diện của nhân dân, thường là Nghị viện hoặc Quốc hội Tại Việt Nam, hệ thống thuế cũng tuân theo nguyên tắc này, với quyền quyết định các vấn đề về thuế được trao cho Quốc hội, được ghi nhận tại khoản 4 Điều 70 của Hiến pháp.
Năm 2013, quy định liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đã được cụ thể hóa trong các văn bản pháp lý như khoản 2 Điều 7 Luật Tổ chức Quốc hội 2014, Điều 19 Luật Ngân sách nhà nước 2015, và khoản 1 Điều 15 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 Những quy định này tạo nền tảng pháp lý cho Quốc hội trong việc ban hành các sắc thuế, bao gồm thuế TTĐB Do đó, quyết định về hàng hóa và dịch vụ nào thuộc đối tượng không chịu thuế TTĐB hoàn toàn nằm trong thẩm quyền của Quốc hội.
Chính phủ và Bộ Tài chính có trách nhiệm xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế TTĐB và các sửa đổi, bổ sung của Quốc hội để đảm bảo hiệu quả triển khai thực tế Mặc dù họ chỉ có quyền ban hành các Nghị định và Thông tư mà không được sửa đổi nội dung sắc thuế, nhưng các quy định trong luật thường mang tính khái quát và cần được cụ thể hóa Do đó, các hướng dẫn này là cần thiết để đảm bảo tính khả thi và ổn định lâu dài cho các sắc thuế trong bối cảnh biến động của nền kinh tế.
Theo quy định hiện hành, đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) được xác định bởi Quốc hội và được nêu rõ tại Điều 3 của Luật thuế TTĐB 2008, đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2014 và 2016 Các quy định chi tiết liên quan sẽ được hướng dẫn bởi Nghị định 108/2015/NĐ-CP và Thông tư 195/2015/TT-BTC.
21 Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (1), tr.19
Theo Điều 96 Hiến pháp 2013 và các quy định tại Điều 6, Điều 8 của Luật Tổ chức Chính phủ 2015, Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể Ngoài ra, Điều 99 Hiến pháp 2013, Điều 34 Luật Tổ chức Chính phủ 2015, cùng với Điều 26 Luật Ngân sách Nhà nước 2015, xác định nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tài chính.
Thứ hai, cơ sở pháp lý theo chiều ngang – quy định về đối tƣợng không chịu thuế
TTĐB phải đồng thời phù hợp với quy định pháp luật về thuế khác, pháp luật hải quan và các văn bản liên quan khác
Khi Quốc hội ban hành sắc thuế, cần đảm bảo tính thống nhất và ổn định trong hệ thống pháp luật thuế Quy định về đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) phải dựa trên nhiều căn cứ, đặc biệt là sự hài hòa với các luật thuế khác như thuế xuất khẩu-nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và pháp luật hải quan Mối liên hệ giữa các sắc thuế và pháp luật hải quan là rất sâu sắc; do đó, nếu có mâu thuẫn về đối tượng không chịu thuế TTĐB, sẽ gây ra hậu quả tiêu cực cho mục đích thuế và các chính sách kinh tế, tài chính khác Ví dụ, khu phi thuế quan tại Việt Nam có quan hệ mua bán với nội địa được coi là xuất nhập khẩu, nên hàng hóa ở đây nên được xem là đối tượng không chịu thuế TTĐB Nếu đánh thuế vào những đối tượng này, sẽ không phù hợp với bản chất thuế TTĐB và cản trở các chính sách ưu đãi phát triển kinh tế khu phi thuế quan.
23 Trường Đại học Luật Hà nội (2016), Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, tr.111
Theo Khoản 2 Điều 2 của Quy chế Hoạt động khu phi thuế quan trong khu kinh tế và khu kinh tế cửa khẩu, được ban hành kèm theo Quyết định số 100/2009/QĐ-TTgCP ngày 30 tháng 7 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ, các quy định chi tiết về hoạt động và quản lý khu phi thuế quan đã được xác định rõ ràng.
Các quy định về đối tượng không chịu thuế trong các sắc thuế liên quan đến hàng hóa cho thấy nhiều điểm tương đồng, như hàng hóa chuyển khẩu, quá cảnh, viện trợ nhân đạo, hàng hóa nhập khẩu trong định mức, hàng hóa sử dụng trong quan hệ ngoại giao – lãnh sự, và hàng hóa trong khu phi thuế quan đều không chịu thuế ở các loại thuế như thuế XK-NK, thuế GTGT, thuế TTĐB và thuế bảo vệ môi trường Sự tương đồng này xuất phát từ việc các quy định trong các sắc thuế có sự phối hợp chặt chẽ nhằm thực hiện các chính sách kinh tế, tài chính và ngoại giao của Nhà nước Hơn nữa, do các dự án Luật về thuế và hải quan chủ yếu do Bộ Tài chính soạn thảo, nên khả năng xảy ra mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản này là rất thấp.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia ngày càng gắn kết với nhau, dẫn đến nhu cầu xây dựng hệ thống pháp luật thuế phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế Việt Nam cần tuân thủ các cam kết quốc tế về thuế, đặc biệt là nguyên tắc Pacta sunt servanda, để đảm bảo thực hiện các điều ước quốc tế mà nước này là thành viên Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 quy định rằng việc ban hành văn bản pháp luật không được cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.