Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật thi hành án hình sự về chế độ liên lạc của phạm nhân
Trong thời gian qua, các trại giam thuộc Bộ Công an đã thực hiện đầy đủ chế độ liên lạc của phạm nhân theo quy định pháp luật.
Các trại giam thuộc Bộ Công an tuân thủ quy định về đối tượng phạm nhân được liên lạc qua điện thoại và thư tín, bao gồm ông bà, bố mẹ, vợ chồng, con cái và một số người thân khác Mỗi tháng, phạm nhân có quyền gửi tối đa hai lá thư và thực hiện một cuộc gọi điện thoại không quá 5 phút Ngoài những người thân quy định, cá nhân hoặc đại diện tổ chức khác có thể liên lạc với phạm nhân trong những trường hợp được Giám thị trại giam xem xét, nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của phạm nhân và hỗ trợ công tác phòng, chống tội phạm.
Các trại giam thuộc Bộ Công an tổ chức cho phạm nhân gọi điện thoại cho người thân mỗi tháng một lần, tối đa 5 phút Những phạm nhân chấp hành tốt nội quy và tích cực lao động cải tạo có thể gọi thêm một lần trong tháng Giám thị trại giam sẽ xem xét các yêu cầu liên lạc từ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác nếu việc này có tác động tích cực đến việc học tập và cải tạo của phạm nhân Đối với phạm nhân chưa thành niên, các trại giam tuân thủ quy định của Điều 53 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, cho phép gọi điện thoại không quá bốn lần trong tháng, mỗi lần tối đa 10 phút, dưới sự giám sát của cán bộ và tự chịu phí liên lạc.
Giám thị các trại giam thuộc Bộ Công an có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan bưu chính viễn thông địa phương để lắp đặt điện thoại cố định cho phạm nhân, nhằm tạo điều kiện cho họ liên lạc với người thân theo quy định pháp luật Đồng thời, cán bộ sẽ trực tiếp giám sát và theo dõi quá trình nói chuyện điện thoại cũng như việc nhận và gửi thư giữa phạm nhân và người thân, đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Theo Điều 8, Chương III Thông tư số 07/2018/TT-BCA ban hành ngày 12/02/2018 của Bộ Công an, quy định về quyền gặp gỡ thân nhân của phạm nhân, bao gồm việc nhận và gửi thư, nhận tiền và đồ vật, cũng như thực hiện liên lạc điện thoại với gia đình.
9 Khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành án hình sự năm 2010
10 Khoản 2 Điều 13 Chương IV Thông tư số 07/2018/TT-BCA ngày 12/02/2018
11 Điều 53 Luật Thi hành án hình sự năm 2010
12 Khoản 1 và 5 Điều 13 Thông tư số 07/2018/TT-BCA
Liên lạc qua thƣ (đơn vị tính: lá thƣ)
Liên lạc qua điện thoại
Bảng 1: Thống kê chế độ liên lạc tại Trại giam Châu Bình – Bộ Công an
Liên lạc qua thƣ (đơn vị tính: lá thƣ)
Liên lạc qua điện thoại
Bảng 2: Thống kê chế độ liên lạc tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bến Tre
Liên lạc qua thƣ (đơn vị tính: lá thƣ)
Liên lạc qua điện thoại
Bảng 3: Thống kế chế độ liên lạc tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang
Liên lạc qua thƣ (đơn vị tính: lá thƣ)
Liên lạc qua điện thoại
Bảng 4: Thống kê chế độ liên lạc tại 09 Nhà tạm giữ trên địa bàn tỉnh Bến Tre
Các cơ sở giam giữ tại tỉnh Bến Tre đã triển khai lắp đặt máy điện thoại cố định để tạo điều kiện cho phạm nhân liên lạc trực tiếp với người thân, đồng thời yêu cầu phạm nhân tự chịu chi phí liên lạc Mỗi cuộc gọi đều có cán bộ giám sát để đảm bảo nội dung trao đổi tuân thủ quy định pháp luật Đa số phạm nhân và người thân đều chấp hành tốt các quy định trong quá trình liên lạc, giúp động viên tinh thần phạm nhân trong việc cải tạo và học tập Chế độ liên lạc này không chỉ hỗ trợ phạm nhân trong quá trình cải tạo mà còn giúp họ cập nhật thông tin xã hội, giảm bỡ ngỡ khi tái hòa nhập cộng đồng.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện các chế độ liên lạc của phạm nhân vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế sau đây:
13 Khoản 1 Điều 13 Chương IV Thông tư số 07/2018 ngày 12/02/2018
14 Khoản 5 Điều 13 Chường IV Thông tư số 07/2018 ngày 12/02/2018
Một là, số lượng, thời gian liên lạc điện thoại với người thân quá ngắn
Khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định rằng phạm nhân chỉ được liên lạc điện thoại với thân nhân một lần mỗi tháng, mỗi lần không quá 05 phút Tác giả cho rằng quy định này là quá hạn chế, vì thời gian ngắn không đủ để trao đổi thông tin đầy đủ Việc liên lạc qua điện thoại không chỉ giúp hỏi thăm sức khỏe và tình hình gia đình mà còn tạo cơ hội cho người thân động viên, khích lệ tinh thần phạm nhân, khuyến khích họ chấp hành án tốt và cố gắng cải tạo Do đó, cần xem xét tăng số lần và thời gian gọi điện, đồng thời có chính sách khen thưởng cho phạm nhân chấp hành tốt nội quy bằng cách tăng số lần và thời gian gọi điện như đã đề xuất trong Điều 47.
Hai là, việc quy định kiểm tra thư tín, điện tín chưa rõ ràng, gây khó khăn trong công tác thực hiện
Theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì:
Phạm nhân có quyền gửi hai lá thư mỗi tháng và trong trường hợp khẩn cấp, có thể gửi điện tín Giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam, và thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra và duyệt thư, điện tín mà phạm nhân gửi và nhận.
Theo quy định của luật, thư và điện tín của phạm nhân phải được kiểm tra và kiểm duyệt, tuy nhiên hiện chưa có văn bản cụ thể hướng dẫn quy trình này, gây khó khăn trong thực hiện Cần làm rõ cách thức kiểm tra nội dung, sự cần thiết của người chứng kiến, việc lập biên bản và xác định nội dung không phù hợp Để đảm bảo việc thực hiện công tác này hiệu quả và đúng quy định pháp luật, cần ban hành điều luật hoặc thông tư hướng dẫn chi tiết.
Ba là, việc quy định tính giá cước cuộc gọi còn nhiều bất cập, cụ thể:
Khoản 1 Điều 13 Thông tư 07/2018/TT-BCA quy định:
Các cơ sở giam giữ hợp tác với cơ quan bưu chính viễn thông địa phương để lắp đặt máy điện thoại bàn, tạo điều kiện cho phạm nhân liên lạc với thân nhân Cước phí gọi điện thoại được tính theo giá của cơ quan bưu chính viễn thông và do phạm nhân chi trả từ tiền lưu ký thông qua hình thức ký sổ.
Điện thoại bàn tại các cơ sở viễn thông được điều khiển bởi hệ thống máy chủ qua mạng máy tính, giúp tính toán thời gian và chi phí cho từng cuộc gọi Mỗi nhà mạng có bảng giá riêng, không thống nhất cho các loại cuộc gọi khác nhau Theo quy định, các cơ sở giam giữ phải phối hợp với cơ quan bưu chính viễn thông để lắp đặt điện thoại bàn cho phạm nhân, tạo điều kiện cho họ liên lạc với thân nhân Điều này giúp phạm nhân trò chuyện, chia sẻ thông tin về cuộc sống hàng ngày, đồng thời khuyến khích họ cải tạo tốt để sớm trở về với gia đình và xã hội.
Việc liên kết giữa cơ sở giam giữ và cơ quan bưu chính viễn thông địa phương hiện còn nhiều hạn chế Các cơ sở giam giữ với điều kiện vật chất yếu kém không được trang bị đầy đủ thiết bị để tính thời gian gọi và giá cước Hầu hết điện thoại bàn không hiển thị thời gian gọi và chi phí, khiến cho việc xác định thời gian và số tiền thực tế chỉ được thực hiện khi nhà mạng tổng kết tiền thuê bao hàng tháng Thêm vào đó, quy định về hình thức ký sổ chưa phù hợp với việc tính giá cước và thời gian gọi, dẫn đến việc phạm nhân và cơ sở giam giữ không thể xác định rõ số tiền chi trả sau mỗi lần liên lạc, gây khó khăn trong quá trình thực hiện chế độ liên lạc của phạm nhân.
Bốn là, công tác giám sát quá trình liên lạc đối với phạm nhân là người nước ngoài và người dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn
Theo Khoản 2 Điều 13 Thông tư số 07/2018/TT-BCA, phạm nhân khi gọi điện thoại cho thân nhân phải đảm bảo liên lạc với đúng số và nội dung đã đăng ký, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, trừ trường hợp phạm nhân là người dân tộc thiểu số hoặc người nước ngoài không biết tiếng Việt.
15 Khoản 1 Điều 13 Chương IV Thông tư số 07/2018/TT-BCA ngày 12/02/2018
Tại Trại giam Châu Bình và các trại tạm giam ở Bến Tre, Tiền Giang cùng 09 Nhà tạm giữ khác, nhiều cán bộ, chiến sĩ chưa đáp ứng yêu cầu công tác hiện nay, đặc biệt là về khả năng sử dụng ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ thông tin Sự hạn chế về trình độ ngoại ngữ của một số cán bộ gây khó khăn trong việc giao tiếp với phạm nhân, đặc biệt là với những người nước ngoài và dân tộc thiểu số trong quá trình thi hành án hình sự và liên lạc với thân nhân.
Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật thi hành án hình sự về chế độ liên lạc của phạm nhân và nâng cao hiệu quả thực hiện
Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật thi hành án hình sự về chế độ liên lạc của phạm nhân
1.3.1 Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật thi hành án hình sự về chế độ liên lạc của phạm nhân
Đề nghị tăng thời gian liên lạc điện thoại với thân nhân và bổ sung thêm một lần gọi điện cho phạm nhân có thành tích tốt tại trại giam, theo quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, nhằm khuyến khích phạm nhân tích cực cải tạo, học tập và lao động Đây là một phần thưởng tạo động lực giúp phạm nhân tuân thủ nội quy và quy định của cơ sở giam giữ.
Theo Luật Thi hành án hình sự năm 2019, phạm nhân có quyền liên lạc qua điện thoại với thân nhân một lần mỗi tháng, mỗi lần không quá 10 phút, trừ trường hợp khẩn cấp Quyết định về việc cho phép liên lạc và kiểm soát thực hiện liên lạc này thuộc về Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam và Thủ trưởng cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện.
So với Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì Luật Thi hành án hình sự năm
Năm 2019, thời gian phạm nhân được liên lạc qua điện thoại với gia đình và người thân đã được điều chỉnh mở rộng từ 5 phút lên 10 phút, tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin về cuộc sống, sinh hoạt và cải tạo hàng ngày Ngoài việc tăng thời gian liên lạc, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 còn bổ sung các trường hợp xem xét thời gian liên lạc cho phạm nhân.
Điều 54, Khoản 2 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định về các trường hợp cấp bách, cho thấy sự mở rộng trong việc thực hiện chế độ liên lạc đối với phạm nhân Các trường hợp này được hiểu là những vấn đề khẩn cấp, cần thiết, yêu cầu tăng cường số lần và thời gian liên lạc, nhằm thể hiện tính linh hoạt và chủ động trong việc xem xét chế độ cho phạm nhân.
Tác giả nhận thấy rằng thời gian liên lạc của phạm nhân với gia đình hiện tại còn quá ít, chỉ một lần mỗi tháng và không quá 10 phút, điều này không đủ để trao đổi thông tin cần thiết và phát huy tác dụng trong giáo dục, cải tạo Để cải thiện tình hình này, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 54 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, cho phép phạm nhân được liên lạc qua điện thoại với thân nhân hai lần mỗi tháng, mỗi lần không quá 15 phút Ngoài ra, trong trường hợp cấp bách hoặc khi phạm nhân được khen thưởng, có thể cho phép liên lạc thêm một lần trong tháng, với sự quyết định và kiểm soát của giám thị trại giam và các cơ quan liên quan.
Hai là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật liên quan đến việc kiểm tra, kiểm duyệt nội dung thư, điện tín của phạm nhân
Việc áp dụng các quy định liên quan đến hoạt động kiểm tra, kiểm duyệt nội dung thư từ của phạm nhân hiện còn nhiều lúng túng do thiếu quy định cụ thể Cần xác định rõ nội dung không phù hợp, tiêu chí kiểm tra, và quy trình xử lý khi phát hiện vi phạm Để bảo đảm quyền con người và chế độ liên lạc của phạm nhân, tác giả kiến nghị cần ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết, giúp quy trình thực hiện tại cơ sở giam giữ diễn ra minh bạch và tuân thủ pháp luật.
Việc quy định cụ thể chế độ liên lạc cho phạm nhân là người nước ngoài trong luật là cần thiết để giảm thiểu sự lúng túng và thiếu sót trong quá trình thực hiện.
Nhiều phạm nhân nước ngoài gặp khó khăn trong việc giao tiếp bằng tiếng Việt, điều này ảnh hưởng đến quá trình giám sát liên lạc của họ Thân nhân của những phạm nhân này có thể là người Việt Nam hoặc người nước ngoài sống tại các quốc gia khác, dẫn đến sự khác biệt về múi giờ Hơn nữa, chính phủ của các quốc gia mà phạm nhân mang quốc tịch cũng quan tâm đến việc thực hiện án phạt của công dân của họ.
Việc quy định chế độ liên lạc cho phạm nhân là người nước ngoài và phạm nhân là người Việt Nam trong cùng một điều luật là không hợp lý, vì điều này có thể gây ra khó khăn và một số hạn chế nhất định.
Tác giả đề xuất bổ sung một khoản trong Điều 54 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 để quy định rõ ràng quy trình giám sát và chế độ liên lạc của phạm nhân là người nước ngoài Việc này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phạm nhân mà còn góp phần nâng cao công tác ngoại giao giữa Việt Nam và các quốc gia khác Hơn nữa, cần thường xuyên giáo dục phạm nhân về đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Việt Nam, đồng thời tổ chức cho họ tham gia lao động, sản xuất để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, từ đó giúp họ trở thành người lao động chân chính.
CHẾ ĐỘ CHĂM SÓC Y TẾ CỦA PHẠM NHÂN
Quy định của pháp luật thi hành án hình sự về chế độ chăm sóc y tế của phạm nhân
Chăm sóc y tế bao gồm việc chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa các bệnh tật, thương tích và suy yếu về thể chất, tinh thần ở con người Nó bao gồm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, thứ cấp và thứ ba, cũng như các hoạt động trong lĩnh vực y tế công cộng.
Phạm nhân không chỉ được đảm bảo quyền liên lạc mà còn có quyền chăm sóc y tế, điều này rất quan trọng trong môi trường giam giữ Với không gian chật hẹp, thiếu ánh sáng và sự hiện diện của nhiều đối tượng khác nhau, nguy cơ phát sinh mầm bệnh tại các cơ sở giam giữ là rất cao Do đó, việc áp dụng các biện pháp diệt khuẩn và phòng chống dịch bệnh thường xuyên là cần thiết để bảo vệ sức khỏe của phạm nhân.
Chăm sóc y tế là một chế độ được pháp luật Việt Nam ghi nhận trong lĩnh vực thi hành án hình sự, cụ thể tại Điều 48 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và Điều 55 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 Thêm vào đó, Thông tư số 07/2015/TTLT-BCA-BQP-BYT hướng dẫn về khám bệnh, chữa bệnh cho người bị tạm giữ, tạm giam và phạm nhân Chế độ chăm sóc y tế của phạm nhân cũng được quy định tại Nghị định số 05/VBHN-BCA và Nghị định 117/NĐ-CP, đảm bảo quyền lợi về sức khỏe cho các đối tượng này trong quá trình quản lý và cải tạo.
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và 2019, cùng với các Thông tư và Nghị định liên quan, xác định rõ ràng các chủ thể có trách nhiệm thực hiện chế độ cho phạm nhân Những cơ quan này có nhiệm vụ tổ chức và thực hiện việc giam giữ phạm nhân theo quy định của pháp luật.
Chế độ chăm sóc y tế cho phạm nhân được quy định rõ ràng trong pháp luật, áp dụng cho những người đang chấp hành án phạt tù chung thân hoặc có thời hạn Luật quy định các nội dung cụ thể như phòng, chống dịch bệnh, khám và chữa bệnh, cung cấp thực phẩm, cấp phát thuốc, và bồi dưỡng cho phạm nhân Các quy định này đã được triển khai một cách cụ thể và hiệu quả, đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Pháp luật thi hành án hình sự quy định chế độ chăm sóc y tế đặc biệt cho phạm nhân, nhằm đảm bảo quyền lợi và sức khỏe của họ trong quá trình chấp hành án.
Theo khoản 3 Điều 48 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, nếu phạm nhân có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác ảnh hưởng đến khả năng điều khiển hành vi, cơ quan thi hành án sẽ đề nghị Tòa án tiến hành giám định pháp y tâm thần Nếu kết luận xác nhận phạm nhân mắc bệnh, Chánh án Tòa án sẽ quyết định đưa họ vào cơ sở y tế chuyên khoa để chữa bệnh, và thời gian điều trị sẽ được tính vào thời hạn chấp hành án phạt tù Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 45, Luật cũng quy định chế độ riêng cho phạm nhân mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Phạm nhân nữ mang thai nếu không được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù sẽ được bố trí nơi ở hợp lý và đảm bảo khám thai định kỳ hoặc đột xuất Họ cũng sẽ nhận được chăm sóc y tế khi cần thiết, được giảm thời gian lao động và hưởng chế độ ăn uống đảm bảo sức khỏe.
Tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, quy định rõ:
Phạm nhân dưới 18 tuổi được đảm bảo chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế tương tự như phạm nhân từ 18 tuổi trở lên, với khẩu phần ăn được tăng thêm thịt và cá nhưng không quá 20% so với định lượng Điều này thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với công tác giáo dục và cải tạo cho phạm nhân trẻ tuổi.
Chế độ chăm sóc y tế cho phạm nhân trong pháp luật thi hành án hình sự năm 2019 thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với quyền con người, đồng thời phản ánh chính sách nhân đạo theo các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết Theo Điều 27 Luật Thi hành án hình sự, phạm nhân có quyền được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, và chăm sóc y tế Việc duy trì chế độ chăm sóc y tế không chỉ giúp phạm nhân có sức khỏe tốt để lao động, học tập và cải tạo, mà còn ngăn ngừa dịch bệnh trong môi trường giam giữ khép kín, đảm bảo an toàn cho cả cộng đồng.
Phạm nhân trong thời gian chấp hành án vẫn được đảm bảo quyền lợi chăm sóc sức khỏe theo quy định của pháp luật Điều này được quy định rõ ràng trong Luật Thi hành án hình sự và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định: “Phạm nhân được hưởng chế độ phòng, chống dịch bệnh Trại giam, trại tạm giam, cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện phối hợp với trung tâm y tế cấp huyện hoặc bệnh viện quân đội nơi trại giam, trại tam giam, cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện đóng tổ chức khám sức khỏe cho phạm nhân”
Luật Thi hành án hình sự năm 2019 tiếp tục kế thừa chế độ chăm sóc y tế từ Luật năm 2010, quy định tại khoản 1 Điều 55 rằng phạm nhân được hưởng chế độ phòng, chống dịch bệnh Các trại giam, trại tạm giam và cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm phối hợp với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp huyện hoặc bệnh viện quân đội để tổ chức khám sức khỏe cho phạm nhân.
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và năm 2019 có nhiều điểm tương đồng, tuy nhiên, một sự khác biệt quan trọng là nơi khám, chữa bệnh cho phạm nhân đã được mở rộng Cụ thể, quy định về điều trị bệnh tại trung tâm y tế cấp huyện đã được thay thế bằng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp huyện Sự thay đổi này giúp mở rộng phạm vi điều trị cho phạm nhân, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc đảm bảo chế độ chăm sóc sức khỏe cho họ.
Quyền chăm sóc y tế là quyền con người không bị tước bỏ của phạm nhân trong thời gian chấp hành án tại các cơ sở giam giữ Do môi trường giam giữ tập trung nhiều phạm nhân, nguy cơ nhiễm bệnh rất cao, vì vậy cần thực hiện phòng chống dịch bệnh và khám sức khỏe định kỳ để phát hiện và điều trị kịp thời Mỗi trại giam thành lập bệnh xá hoặc trạm xá để phục vụ khám và chữa bệnh cho phạm nhân, đảm bảo biên chế, tổ chức và trang thiết bị phù hợp với tình hình và yêu cầu của trại giam.
Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật thi hành án hình sự về chế độ chăm sóc y tế của phạm nhân
Chế độ chăm sóc y tế đối với phạm nhân tại các cơ sở giam giữ, như trại giam Châu Bình và trại tạm giam Công an tỉnh Bến Tre và Tiền Giang, đã được khảo sát thực tế để làm rõ thực tiễn thực hiện Dữ liệu thu thập từ báo cáo tổng kết năm cho thấy có những ưu điểm và hạn chế trong việc chăm sóc sức khỏe cho phạm nhân đang chấp hành án.
19 Số liệu được thu thập từ báo cáo tổng kết năm về công tác Thi hành án hình sự từ năm 2014 đến năm 2018
Năm Đội ngũ y, bác sĩ
Chế độ chăm sóc y tế
Tổng số cấp phát thuốc (lƣợt) Điều trị tại trạm xá (lƣợt) Điều trị tại tuyến trên (lƣợt)
Bảng 5: Thống kê chế độ chăm sóc y tế tại Trại giam Châu Bình, Bộ Công an
Năm Đội ngũ y, bác sĩ
Chế độ chăm sóc y tế
Tổng số cấp phát thuốc (lƣợt) Điều trị tại trạm xá (lƣợt) Điều trị tại tuyến trên (lƣợt)
Bảng 6: Thống kê chế độ chăm sóc y tế tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bến Tre
Năm Đội ngũ y, bác sĩ
Chế độ chăm sóc y tế
Tổng số cấp phát thuốc (lƣợt) Điều trị tại trạm xá (lƣợt) Điều trị tại tuyến trên (lƣợt)
Bảng 7: Thống kê chế độ chăm sóc y tế tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang
Năm Đội ngũ y, bác sĩ
Chế độ chăm sóc y tế
Tổng số cấp phát thuốc (lƣợt) Điều trị tại trạm xá (lƣợt) Điều trị tại tuyến trên (lƣợt)
Bảng 8: Thống kê chế độ chăm sóc y tế tại 09 Nhà tạm giữ trên địa bàn tỉnh Bến Tre
Hiện nay, các cơ sở giam giữ tại tỉnh Bến Tre đang gặp khó khăn về cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế phục vụ cho việc chăm sóc sức khỏe của phạm nhân Tại trại giam Châu Bình, Bộ Công an chỉ có 05 giường bệnh, với số lượng y bác sĩ hạn chế, dẫn đến việc đảm bảo chế độ chăm sóc y tế cho phạm nhân gặp nhiều trở ngại Tương tự, nhà tạm giữ cấp huyện cũng thiếu thốn về điều kiện cơ sở vật chất, chỉ có 01 y sĩ phụ trách nhiều công tác chuyên môn, trong khi số giường bệnh và trang thiết bị y tế không đủ để đáp ứng nhu cầu điều trị, buộc phải chuyển các trường hợp bệnh nặng lên tuyến trên.
Trại giam hiện nay đối mặt với nhiều thách thức trong việc cung cấp dịch vụ y tế cho phạm nhân, đặc biệt là đối với các y sỹ và bác sĩ tại bệnh xá, khi họ phải đảm nhận nhiều lĩnh vực khác nhau như điều trị HIV, bệnh lao, khám thai và chăm sóc trẻ em Chất lượng khám chữa bệnh chưa được đảm bảo do cơ sở vật chất và đội ngũ y bác sĩ còn thiếu hụt, không đáp ứng kịp thời nhu cầu ngày càng tăng của phạm nhân Việc điều trị cho những phạm nhân nhiễm HIV/AIDS gặp nhiều khó khăn, và những người mắc bệnh mãn tính không được chăm sóc đúng mức như ở bên ngoài Các dịch vụ y tế cho phạm nhân mắc bệnh mãn tính chủ yếu phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ các cơ sở y tế, cộng đồng và gia đình Đặc biệt, chế độ chăm sóc cho phạm nhân nữ mang thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi vẫn chưa được đảm bảo theo tiêu chuẩn y tế hiện hành.