KHÁI QUÁT VỀ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH, THIẾT BỊ NHÂN TẠO TRÊN BIỂN THEO CÔNG ƢỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN 1982
Khái niệm và phân loại công trình, thiết bị nhân tạo trên biển
1.1.1 Khái niệm đảo nhân tạo, công trình, thiết bị nhân tạo trên biển
1.1.1.1 Định nghĩa đảo nhân tạo
Xuất phát từ nhu cầu kinh tế, khoa học và xã hội, con người đã xây dựng các công trình trên biển từ xa xưa Theo học thuyết thềm lục địa, các quốc gia ven biển được công nhận quyền xây dựng cấu trúc nhân tạo để thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên trên thềm lục địa của mình, nhưng những cấu trúc này không được công nhận là đảo Tại Hội nghị Pháp điển hoá Luật pháp quốc tế La Hay năm 1930, đề xuất của đại diện Đức về việc công nhận đảo nhân tạo có người ở là đảo đã bị bác bỏ, dẫn đến việc không quốc gia nào tiếp tục đề xuất quy chế đảo cho các cấu trúc nhân tạo.
Luật quốc tế hiện chưa có định nghĩa chính thức về đảo nhân tạo, mặc dù đã có nhiều tài liệu nghiên cứu về chủ đề này từ những năm 1970 và 1980 Trong Hội nghị lần thứ ba của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS III), một số quốc gia đã đề xuất các khái niệm liên quan, nhưng không có định nghĩa nào được đưa ra Mặc dù đảo nhân tạo do con người tạo ra, thuật ngữ và quy chế pháp lý của nó vẫn chưa được xác định rõ ràng trong lịch sử luật pháp quốc tế Theo Gidel, đảo nhân tạo có thể được coi là đảo tự nhiên nếu đáp ứng các điều kiện như bao quanh là nước, nổi vĩnh viễn trên mặt biển khi thủy triều lên, và có khả năng cho phép con người sinh sống Hơn nữa, đảo nhân tạo cũng cần được hình thành theo các quy luật tự nhiên.
The notable works on artificial islands include Nikos Papadakis' "The International Legal Regime of Artificial Islands" (Leyden: A.W Sijthoff, 1977) and Alfred HA Soons' article "Artificial Islands and Installations in International Law," published in the Marine Law Institute Journal, July 1974 According to Papadakis, artificial islands are created through human intervention, specifically by depositing soil or rock into the sea.
Cách nhìn nhận đảo nhân tạo như các con tàu có thể bắt nguồn từ báo cáo của Hội đồng Hội Quốc Liên năm 1927, cho rằng những đảo do con người tạo ra và neo đậu tại đáy biển mà không cần kết nối cố định với đáy biển nên được xem như tàu đang hoạt động trên biển Mặc dù đảo nhân tạo có một số đặc điểm của cả tàu và đảo tự nhiên, việc phân loại chúng là tàu hay đảo tự nhiên đều không hợp lý Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) không định nghĩa cụ thể về “tàu”, nhưng trong những năm 1950, ông Francois đã dự thảo một định nghĩa về “tàu” tại Ủy ban Luật pháp Quốc tế, tuy nhiên định nghĩa này đã bị xóa bỏ vào năm 1955 UNCLOS chỉ định nghĩa thuật ngữ “tàu chiến”, trong khi một số điều ước quốc tế khác đã định nghĩa “tàu” bao gồm nhiều loại phương tiện hoạt động trong môi trường biển, như tàu cánh ngầm, phương tiện hơi đệm, tàu ngầm và các nền tảng cố định hoặc thả nổi khác, cho thấy rằng các nền tảng này cũng có thể được xếp loại là đảo nhân tạo.
Trong luật quốc tế, khái niệm "đảo nhân tạo" vẫn đang gây tranh cãi và chưa có định nghĩa chung được chấp nhận, mặc dù nhiều quy định trong UNCLOS đề cập đến khái niệm này Việc thiếu một định nghĩa rõ ràng trong UNCLOS đã dẫn đến những khó khăn trong việc áp dụng và thực thi các quy định liên quan đến đảo nhân tạo.
Theo Gidel (1934), các đảo nhân tạo có tác động đáng kể đến tranh chấp quần đảo Trường Sa Nghiên cứu của Keyaun Zou chỉ ra rằng sự phát triển của các đảo này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn làm gia tăng căng thẳng trong khu vực Việc xây dựng và mở rộng các đảo nhân tạo đã trở thành một yếu tố quan trọng trong các cuộc xung đột lãnh thổ, đặc biệt là ở Biển Đông Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy trong bài viết trên trang web nghiên cứu Biển Đông.
The article by Nikos Papadakis discusses the international legal framework governing artificial islands It highlights the significance of understanding the legal status and rights associated with these islands in maritime law For further details, you can access the content at the provided link.
23 Xem mục 1.1.2.1 Phân biệt đảo nhân tạo với đảo tự nhiên trang 20 của khóa luận này
Điều 29 của UNCLOS định nghĩa về đảo nhân tạo, dẫn đến việc các học giả trong lĩnh vực luật pháp quốc tế nỗ lực xây dựng một khái niệm rõ ràng Định nghĩa phổ biến và được chấp nhận rộng rãi nhất hiện nay là từ Bách khoa toàn thư Công pháp quốc tế, trong đó đảo nhân tạo được mô tả là nền tảng cố định, có thể là vĩnh viễn hoặc tạm thời, do con người tạo ra bằng cách sử dụng các vật liệu tự nhiên như sỏi, cát và đá, bao quanh là nước và nổi trên mặt nước khi thủy triều lên.
Theo Soons, đảo nhân tạo là các cấu trúc được hình thành từ việc đổ lên các vật liệu tự nhiên như sỏi, cát và đá Ngược lại, các công trình lắp đặt nhân tạo là những cấu trúc bê tông cố định, được gắn chặt với đáy biển thông qua ống dẫn và cọc.
Theo sổ tay pháp lý của Công ước 1982 do IHO soạn thảo, các cấu trúc do con người tạo ra trong lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa được định nghĩa là những công trình thường được sử dụng để thăm dò hoặc khai thác tài nguyên biển Ngoài ra, chúng cũng có thể được xây dựng với mục đích khác như nghiên cứu khoa học biển và các trạm quan trắc thủy triều.
Việc thiếu định nghĩa về đảo nhân tạo trong UNCLOS đã dẫn đến sự không thống nhất giữa các quốc gia và gây ra nhiều tranh chấp trên biển Đảo nhân tạo được hiểu là cấu trúc do con người tạo ra trong vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia, cũng như trong vùng biển quốc tế và đáy đại dương Đảo nhân tạo phải thường xuyên nổi trên mặt nước khi thủy triều lên và được xây dựng với mục đích an ninh, dân sự, kinh tế, khoa học và xã hội, đồng thời phải tuân thủ các quy định của UNCLOS.
1.1.1.2 Định nghĩa công trình nhân tạo trên biển
Bài viết "Đảo nhân tạo ở Trường Sa dưới góc nhìn luật pháp quốc tế" của tác giả Kim Ngân, đăng trên báo Năng lượng Mới số 423, phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến việc xây dựng đảo nhân tạo tại Trường Sa Nội dung bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của luật pháp quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp và bảo vệ chủ quyền biển đảo Để tìm hiểu thêm, bạn có thể truy cập vào địa chỉ http://petrotimes.vn/news/vn/bien-dong/dao-nhan-tao-o-truong-sa-duoi-goc-nhin-luat-phap-quoc-te-286441.html, với ngày truy cập là 30/6/2015.
Năm 1974, Soons đã chỉ ra rằng các đảo nhân tạo có ảnh hưởng đáng kể đến tranh chấp quần đảo Trường Sa Theo Keyaun Zou, những tác động này có thể dẫn đến sự gia tăng căng thẳng trong khu vực Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy trên trang web http://nghiencuubiendong.vn, nơi tổ chức hội thảo quốc tế về Biển Đông vào tháng 11 năm 2010.
27 Bộ Ngoại Giao, Theo Sổ tay pháp lý cho người đi biển, (2002), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr 38
Trước khi khám phá các công trình nhân tạo trên biển, cần nắm rõ khái niệm và đặc điểm của công trình Theo từ điển bách khoa Việt Nam, "công trình" là sản phẩm hoàn chỉnh từ một quá trình xây dựng có mục đích Công trình có thể có quy mô đa dạng, từ những công trình lớn như thủy điện Hòa Bình, cầu Thăng Long cho đến những công trình nhỏ như tường rào hay cổng.
Công trình được định nghĩa là vật chắc chắn và bền, yêu cầu sự đầu tư công phu trong quá trình xây dựng, đồng thời cần áp dụng khoa học, kỹ thuật hoặc nghệ thuật Theo từ điển tiếng Việt, công trình không chỉ là vật xây dựng mà còn đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, bao gồm cả công trình kiến trúc và công trình thủy lợi.
ẢNH HƯỞNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH, THIẾT BỊ NHÂN TẠO TRÊN BIỂN
Ảnh hưởng và tác động của việc xây dựng công trình, thiết bị nhân tạo trên biển đối với việc thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia trên các vùng biển
2.1.1 Ảnh hưởng và tác động của việc xây dựng công trình, thiết bị nhân tạo trên biển đối với việc thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia trên biển
Theo UNCLOS, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn đối với vùng biển nội thủy và lãnh hải, nhưng chủ quyền đối với lãnh hải không phải là tuyệt đối do quyền "đi qua không gây hại" của tàu thuyền nước ngoài Quốc gia ven biển có quyền xây dựng đảo nhân tạo và các công trình trong vùng biển thuộc chủ quyền của mình, nhưng phải tuân thủ pháp luật quốc tế Mỗi vùng biển có quy chế pháp lý khác nhau, do đó việc xây dựng các công trình nhân tạo cũng bị điều chỉnh theo quy định của từng vùng Theo UNCLOS, các đảo nhân tạo và công trình không có lãnh hải riêng và không ảnh hưởng đến việc xác định ranh giới lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế Do đó, về mặt pháp lý, các công trình nhân tạo không có quy chế như các đảo tự nhiên, mà phải tuân theo quy chế pháp lý của vùng biển nơi chúng được xây dựng.
UNCLOS quy định như thế là hợp lý Bởi vì, tính chât của những công trình, thiết bị
Khoản 8 Điều 60 UNCLOS quy định rằng các công trình nhân tạo do con người tạo ra khác với các thực thể tự nhiên như đảo Nếu công nhận các công trình này có quy chế như đảo và được hưởng vùng lãnh hải 12 hải lý, sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng, bao gồm xung đột chủ quyền trên biển và sự gia tăng xây dựng đảo nhân tạo Điều này sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia mạnh về kinh tế và khoa học kỹ thuật mở rộng vùng biển thông qua việc xây dựng tràn lan các công trình nhân tạo, từ đó đưa ra các yêu sách lãnh thổ Hơn nữa, việc công nhận quy chế cho đảo nhân tạo có thể đi ngược lại với nguyên tắc tự do biển cả và chủ quyền tập thể được quy định trong UNCLOS, gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh hàng hải và hàng không quốc tế Điều này sẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia không có biển và các quốc gia có vị trí địa lý bất lợi Do đó, việc hiểu rõ quy chế pháp lý của các công trình trên biển là cần thiết để đánh giá vai trò và tác động của chúng trong việc thực thi chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển.
Công trình và thiết bị nhân tạo trên biển không chỉ khẳng định chủ quyền quốc gia mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc đánh dấu biên giới biển Khác với các cột mốc trên đất liền, biên giới biển được xác định qua tọa độ trên hải đồ, nhưng các công trình này vẫn thể hiện quyền chủ quyền của quốc gia ven biển Theo luật pháp quốc tế, chỉ có quốc gia ven biển mới có quyền xây dựng và lắp đặt trên vùng biển chủ quyền Các đảo nhân tạo và công trình trên biển không chỉ phục vụ cho mục đích pháp lý mà còn tạo ra môi trường sống cho con người, đáp ứng nhu cầu gia tăng dân số Hơn nữa, chúng còn là công cụ kinh tế quan trọng cho các hoạt động thăm dò và khai thác tài nguyên như dầu khí.
Điều 89 của UNCLOS quy định về quyền tự do trên biển, nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng cho sự phát triển kinh tế Biển Đông, một trong năm bồn trũng dầu khí lớn nhất thế giới, có trữ lượng dầu đã được kiểm chứng lên tới 7 tỷ thùng, với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày, theo Bộ Năng lượng Mỹ Trung Quốc cũng đánh giá trữ lượng dầu khí tại khu vực này rất lớn.
Quần đảo Trường Sa có trữ lượng dầu lên tới 105 tỷ thùng, cho phép khai thác khoảng 18,5 triệu tấn/năm trong 15 - 20 năm tới Biển Đông còn chứa lượng lớn tài nguyên khí đốt đóng băng, được coi là nguồn năng lượng thay thế cho dầu khí trong tương lai Các công trình và thiết bị nhân tạo không chỉ phục vụ cho ngành du lịch như khu nghỉ dưỡng, sân golf, nhà hàng và khách sạn mà còn hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu tại các cảng biển Điều này cho thấy, các công trình nhân tạo trên biển là phương tiện hiệu quả để các quốc gia ven biển thực thi quyền lợi của mình Ngoài ra, chúng còn đóng vai trò quan trọng trong an ninh quốc phòng và nghiên cứu khoa học biển, khẳng định ý nghĩa của việc hiện diện đảo nhân tạo trong việc thực thi chủ quyền và quyền tài phán quốc gia.
2.1.2 Ảnh hưởng và tác động của việc xây dựng công trình, thiết bị nhân tạo trên biển đối với việc thực thi quyền tài phán của quốc gia trên các vùng biển
Không thể mở rộng chủ quyền lãnh thổ thông qua việc xây dựng đảo nhân tạo hay các công trình, thiết bị trên biển Mặc dù các đảo nhân tạo không tạo ra vùng biển như các đảo tự nhiên, UNCLOS cho phép các quốc gia ven biển thiết lập khu vực an toàn xung quanh các công trình này với kích thước tối đa 500m từ mép ngoài cùng, nhằm bảo đảm an toàn cho các công trình và hàng hải, trừ những trường hợp ngoại lệ do vi phạm quốc tế đã được công nhận.
Khu vực an toàn 500m xung quanh các công trình và đảo nhân tạo là hợp lý, đảm bảo an toàn cho hoạt động hàng hải mà không lấn chiếm không gian biển Tuy nhiên, theo UNCLOS, quốc gia ven biển không được thiết lập khu vực an toàn nếu điều này cản trở các tuyến đường hàng hải thiết yếu cho hàng hải quốc tế Để kiểm soát ô nhiễm môi trường từ hoạt động dưới đáy biển, UNCLOS yêu cầu các quốc gia ven biển phải có quy định cụ thể về việc quản lý ô nhiễm phát sinh từ các công trình, thiết bị thuộc quyền tài phán của họ trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Việc thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia trên các vùng biển theo UNCLOS có tác động tích cực đến mọi mặt đời sống, giúp các quốc gia khai thác tiềm năng từ biển với nguồn tài nguyên sinh vật và khoáng sản phong phú Các hoạt động khai thác như khoan dầu, đặt ống dẫn ngầm và cáp ngầm mang lại giá trị kinh tế cao Để đối phó với biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường, việc cải tạo, bồi đắp đảo và xây dựng công trình trên đảo là cần thiết nhằm chống lại thiên tai và duy trì sự tồn tại của đảo Sự gia tăng mực nước biển thúc đẩy xây dựng đảo nhân tạo và cơ sở hạ tầng, bảo vệ các hòn đảo khỏi ngập nước Những công trình này không chỉ giúp bảo vệ quốc đảo trước tác động của biến đổi khí hậu mà còn thực thi chủ quyền, quyền tái phán trong tìm kiếm cứu nạn và chống tội phạm trên biển.
Để ngăn chặn sự xói mòn của đảo tự nhiên thông qua các biện pháp củng cố nhân tạo, cần áp dụng những phương pháp xử lý khác nhau.
Theo Điều 208 UNCLOS, các hòn đảo có tình trạng pháp lý khác nhau Nếu một hòn đảo đã có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng trước khi có sự can thiệp nhân tạo, nhưng cần xây dựng để bảo vệ trạng thái pháp lý do ảnh hưởng tự nhiên, hành động này phải tuân theo luật pháp quốc tế Điều này trở nên quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao, khi nhiều quốc đảo đối mặt với nguy cơ ngập nước Luật pháp quốc tế cho phép các quốc gia duy trì chủ quyền thông qua kiến trúc nhân tạo, bất kể chi phí Tuy nhiên, việc mở rộng không gian biển chỉ bằng các công trình nhân tạo có thể bị xem xét lại theo luật quốc tế Bảo vệ một hòn đảo hiện có khác với việc tạo ra một khu vực đất mới để đạt được tư cách pháp lý đảo Nỗ lực biến đổi rạn san hô thành hòn đảo tự nhiên để mở rộng vùng biển có thể vi phạm nguyên tắc “tôn trọng hợp lý” và xâm phạm quyền lợi của các quốc gia khác và cộng đồng quốc tế.
Việc xây dựng đảo nhân tạo mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng tiềm ẩn những tác động tiêu cực, vi phạm nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và UNCLOS Những hành động cải tạo bãi cạn và bãi ngầm nhằm "đảo hóa" có thể dẫn đến việc hợp thức hóa các yêu sách chủ quyền không chính đáng, gây ra tranh chấp biển và bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh khu vực và quốc tế Hơn nữa, việc lấn đất từ biển, như ở Hà Lan và Singapore, cũng cần được xem xét kỹ lưỡng để tránh những hệ lụy không mong muốn.
Singapore đã mở rộng diện tích từ 581 km2 lên 695 km2 nhờ vào việc lấn biển trong giai đoạn từ năm 1966 đến 2003 Đồng thời, Hà Lan cũng nổi bật với 30% tổng diện tích lấn biển toàn cầu.
Việc lấn biển cần được xem xét kỹ lưỡng về tính hợp pháp và các tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia láng giềng Mặc dù luật quốc tế không cấm lấn biển, nhưng các hoạt động này phải tôn trọng quyền lợi của các quốc gia liên quan và cộng đồng quốc tế, đặc biệt là trong vấn đề ô nhiễm và bảo vệ môi trường biển Nhiều dự án lấn biển nổi tiếng đã được thực hiện trên thế giới, như hệ thống đê điều ở Hà Lan, lấn biển ở Hong Kong, Vịnh Tokyo, Monaco, Le Portier, Gibraltar, Rio de Janeiro, Wellington, sân bay quốc tế Kansan tại Osaka và các đảo nhân tạo như Palm Islands, The World và khách sạn Burj al-Arab ở Dubai Tất cả những công trình này đều phục vụ cho nhu cầu dân sinh và phải trải qua quá trình đánh giá tác động môi trường cũng như tham vấn ý kiến của các nước xung quanh trước khi xây dựng.
Ảnh hưởng và tác động của việc xây dựng công trình, thiết bị nhân tạo trên biển đến việc thực các quyền hàng hải, hàng không, nghiên cứu khoa học biển
2.2.1 Ảnh hưởng và tác động của việc xây dựng công trình, thiết bị nhân tạo trên biển đến việc thực các quyền hàng hải, hàng không quốc tế
Biển đóng vai trò quan trọng trong giao thông hàng hải, với UNLCOS đặt ra yêu cầu cho các quốc gia ven biển nhằm đảm bảo an ninh và an toàn hàng hải Quyền tự do hàng hải được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia, cho phép tàu thuyền di chuyển dễ dàng qua vùng biển của các quốc gia khác Nguyên tắc này, có nguồn gốc từ tập quán quốc tế, khẳng định rằng tàu mang cờ của bất kỳ quốc gia nào không chịu sự can thiệp từ các nước khác Tự do hàng hải là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Biển và Luật Hàng hải, đặc biệt trong thế kỷ XXI, khi các quốc gia hướng ra biển để phát triển Việc đảm bảo quyền hàng hải và hàng không là yếu tố quyết định cho sự hợp tác quốc tế Các công trình nhân tạo trên biển như hải đăng và trạm radar đóng vai trò thiết yếu trong việc duy trì an ninh hàng hải UNLOCS đã quy định quy chế pháp lý cho các công trình này nhằm bảo vệ tự do hàng hải, phù hợp với nguyên tắc tự do biển cả - một nguyên tắc cổ điển của luật quốc tế, cho phép mọi quốc gia tiếp cận biển cả.
Bài viết của Nguyễn Vũ Hoàng (2013) tập trung vào pháp luật liên quan đến quyền tự do hàng hải và mối quan hệ giữa quyền này với quyền năng của các quốc gia ven biển Tác giả phân tích sự quan trọng của quyền tự do hàng hải trong bối cảnh pháp lý hiện nay và cách thức mà các quốc gia ven biển thực thi quyền lực của mình trong lĩnh vực này Nghiên cứu được đăng tải trong tạp chí Nhà nước và Pháp luật, cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề này trong bối cảnh quốc tế.
Cơ sở pháp lý cho việc sử dụng và quản lý biển quốc tế được quy định bởi UNCLOS, cho phép các quốc gia thực hiện quyền tự do hàng hải, hàng không, nghiên cứu khoa học biển, và xây dựng các công trình nhân tạo Tuy nhiên, các quyền này phải được thực hiện trong khuôn khổ của UNCLOS và các quy tắc pháp luật quốc tế khác, đồng thời cần tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác Biển quốc tế được sử dụng chủ yếu cho mục đích hòa bình, và không quốc gia nào có thể tuyên bố chủ quyền hợp pháp đối với một phần nào của biển quốc tế UNCLOS cũng xác định chế độ pháp lý cho các vùng biển khác nhau, bao gồm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, nơi các quốc gia ven biển có quyền xây dựng và quản lý các công trình nhân tạo Để đảm bảo an toàn hàng hải và hàng không, các công trình này phải tuân thủ các quy định về vị trí và tiêu chuẩn an toàn, nhằm tránh những hậu quả pháp lý không lường cho giao thông trên biển.
Theo Điều 89 UNCLOS, việc bảo đảm sự hiện diện của các đảo, thiết bị và công trình là cần thiết Thủ tục tháo dỡ các công trình, thiết bị không còn sử dụng cần phải xem xét quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác, đồng thời thông báo rõ về vị trí và kích thước của phần còn lại nếu việc tháo dỡ chưa hoàn tất Quốc gia ven biển có quyền thiết lập khu vực an toàn tối đa 500m quanh các đảo nhân tạo và công trình, nhưng không được gây trở ngại cho các tuyến đường hàng hải thiết yếu UNCLOS quy định chặt chẽ về an toàn cho các công trình nhân tạo trên biển, đồng thời bảo vệ quyền hàng hải của các quốc gia, giảm thiểu rủi ro cho giao thông biển Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển, trong khi tại biển cả, tất cả các quốc gia đều có quyền tự do xây dựng công trình, thiết bị nhân tạo, nhưng phải tuân thủ các quy định an toàn và cân nhắc lợi ích của các quốc gia khác Đối với thiết bị nghiên cứu khoa học, việc lắp đặt cần phù hợp với UNCLOS và có thể thiết lập vùng an toàn 500m xung quanh.
Theo Điều 260 của UNCLOS, việc lắp đặt và sử dụng thiết bị nghiên cứu khoa học trên biển phải không gây cản trở cho hàng hải theo các tuyến đường quốc tế Các thiết bị này cần có dấu hiệu nhận diện quốc gia đăng ký hoặc tổ chức quốc tế liên quan, cùng với các phương tiện báo hiệu thích hợp Do đó, mọi công trình và thiết bị xây dựng trên biển phải tuân thủ quy định của luật quốc tế và đảm bảo an toàn, không gây ảnh hưởng đến hoạt động hàng hải và hàng không quốc tế.
Biển đóng vai trò thiết yếu trong sự phát triển của nhân loại, với khoảng 95% truyền thông quốc tế diễn ra qua cáp ngầm Hơn 21 trong số 28 thành phố lớn trên thế giới nằm trong bán kính 100 km từ biển, trong khi 49% lượng dầu toàn cầu được vận chuyển qua bảy huyết mạch biển lớn Khoảng 50% dân số thế giới sống gần bờ biển, và 23.000 tàu hoạt động hàng ngày, vận chuyển 95% thương mại toàn cầu qua đường biển Biển Trung Quốc chiếm gần một nửa trọng tải biển toàn cầu và một phần ba tổng giá trị thương mại Biển Đông là khu vực địa chiến lược quan trọng, kết nối hai đại dương lớn và cung cấp 70-80% lượng dầu nhập khẩu từ Trung Đông cho các quốc gia công nghiệp phát triển như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc Các tuyến đường hàng hải này cũng hỗ trợ xuất nhập khẩu của ASEAN, một khu vực với 550 triệu dân và nền kinh tế trên 1.000 tỷ USD, chiếm 50% thương mại thế giới Năm 2008, thương mại giữa ASEAN và các nước như Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc đạt lần lượt 181 tỷ, 212 tỷ và 198 tỷ USD.
Growing maritime security concerns in Southeast Asia highlight the urgent need for enhanced regional cooperation The increasing threats in these waters necessitate collaborative efforts among nations to ensure stability and security Strengthening partnerships and sharing resources will be crucial in addressing these challenges effectively.
Vào ngày 26/6/2015, Mỹ đã đầu tư trên 100 tỷ USD vào ASEAN, trong khi tự do hàng hải và an toàn hàng hải ở Biển Đông là lợi ích chung của Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia khác trong khu vực Việc bảo đảm tự do hàng hải tại đây là mối quan tâm lớn của các cường quốc bên ngoài Mỹ và Nhật Bản đặc biệt chú trọng đến quyền ra vào tự do qua các tuyến đường biển và hành lang trên không, điều này là sống còn đối với Mỹ trong việc duy trì kết nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương cho các tàu chiến Cựu phát ngôn viên của Ngoại trưởng Mỹ, James P Rubin, nhấn mạnh rằng Mỹ không có lập trường về cơ sở pháp lý của các yêu sách tranh chấp, nhưng có lợi ích thiết yếu trong việc duy trì tự do hàng hải để đảm bảo hòa bình và thịnh vượng cho toàn bộ khu vực Châu Á-Thái Bình Dương Do đó, an ninh hàng hải ở Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong an ninh khu vực Hành động "lấn biển tạo đảo" của Trung Quốc gần đây đã vi phạm UNCLOS, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hàng hải và hàng không quốc tế, đồng thời tác động tiêu cực đến môi trường biển, đặc biệt là đối với Việt Nam và Philippines, cũng như toàn bộ Biển Đông.
Trong vòng một năm, Trung Quốc đã nhanh chóng xây dựng các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa, làm thay đổi đáng kể tình hình địa lý và an ninh tại Biển Đông Đến nay, diện tích xây dựng đã vượt quá tám triệu mét vuông, vượt xa các hoạt động cải tạo của các quốc gia khác và không có dấu hiệu giảm bớt Mặc dù các thực thể mà Trung Quốc chiếm đóng chủ yếu là bãi đá, bãi cạn và rặng san hô, với quy chế pháp lý không được hưởng vùng biển, vẫn có lo ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng các đảo nhân tạo này để mở rộng vùng biển và thực hiện các yêu sách mới.
95 Tại http://www.usasean.org/ASEAN/about.asp Ngày truy cập 17/6/2015
Bài viết của Ji Gou Xing bàn về quyền tài phán biển và hợp tác an ninh tại Biển Đông, được đăng tải trên trang web nghiên cứu Biển Đông Nội dung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định quyền tài phán biển trong bối cảnh gia tăng căng thẳng khu vực, đồng thời kêu gọi sự hợp tác an ninh giữa các quốc gia ven biển để duy trì hòa bình và ổn định Thông tin chi tiết có thể tìm thấy tại http://nghiencuubiendong.vn/toa-dam-hoi-thao/hoi-thao-quoc-te-ve-bien-dong-lan-thu-nhat-ha-noi-2009/605-ji-gou-xing, truy cập ngày 17/6/2015.
Trung Quốc đã nhanh chóng xây dựng các đảo nhân tạo tại quần đảo Trường Sa, làm thay đổi đáng kể tình hình địa lý và an ninh ở Biển Đông Hành động này đã tạo ra hơn tám triệu mét vuông đất trong vùng biển mở, vượt xa hoạt động cải tạo của các quốc gia khác và không có dấu hiệu dừng lại Hàng trăm triệu tấn cát và san hô đã bị khai thác từ đáy biển, gây ra những tác động môi trường nghiêm trọng và không thể phục hồi Các đảo mới được xây dựng sẽ trở thành cơ sở hạ tầng giúp Trung Quốc khẳng định quyền kiểm soát không chỉ tại khu vực Trường Sa mà còn trên phần lớn Biển Đông, xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác Trung Quốc có thể tuyên bố vùng lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo này, vi phạm quyền tự do hàng hải và hàng không của cộng đồng quốc tế Mặc dù có những tranh chấp lãnh thổ lâu dài, việc xây dựng đảo nhân tạo đã làm gia tăng căng thẳng và có thể dẫn đến xung đột trực tiếp với các nước khác trong khu vực Hơn nữa, việc tuyên bố "vùng nhận dạng phòng không" (ADIZ) của Trung Quốc trên biển Hoa Đông đã gây lo ngại cho Nhật Bản và Hàn Quốc Mỹ đã phản ứng bằng cách cử máy bay trinh sát đến gần các đảo tranh chấp, khẳng định đây là vùng biển và không phận quốc tế.
98 Chris Buckley, “China claims air rights over disputed islands” Taị http://www.nytimes.com/2013/11/24/world/asia/china-warns-of-action-against-aircraft-over-disputed- seas.html?_r=0 Ngày truy cập 17/6/2015
Trung Quốc đang có kế hoạch xây dựng cơ sở quân sự tại Trường Sa, điều này đã gây ra lo ngại về việc vi phạm luật pháp quốc tế và quyền tự do hàng hải, hàng không trong khu vực Việc này không chỉ đe dọa an ninh và ổn định của vùng biển có giá trị thương mại lên tới 5,3 ngàn tỷ USD, mà còn cho thấy Trung Quốc đang tự ý tuyên bố quyền "quản lý" không phận quốc tế Thông qua việc xây dựng đảo nhân tạo và các công trình trên bãi đá, Trung Quốc không chỉ muốn mở rộng vùng biển mà còn thiết lập vùng nhận diện phòng không, từ đó hạn chế quyền tự do bay của các quốc gia khác trong khu vực Biển Đông.
2.2.2 Ảnh hưởng và tác động của việc xây dựng công trình, thiết bị nhân tạo trên biển đến việc thực quyền nghiên cứu khoa học biển Đối với vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển Đối với biển cả, áp dụng cho tất cả các quốc gia các quyền tự do nghiên cứu khoa học biển nhưng phải đáp ứng các điều kiện như ở VIII của UNCLOS Như vậy, trong vùng biển cả tất cả các quốc gia có biển hay không có biển đều được quyền tự do xây dựng công trình, thiết bị nhân tạo Tuy nhiên, quyền tự do này không hoàn toàn mà phải đáp ứng những quy định an toàn và “mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng như đến các quyền được UNCLOS thừa nhận liên quan đến các hoạt động trong Vùng” 101 Riêng đối với những dụng cụ, thiết bị nghiên cứu khoa học trong môi trường biển thì việc lắp đặt chúng phải phù hợp với UNCLOS, có thể thiết lập vùng an toàn 500m xung quanh thiết bị 102 và nghĩa vụ không được gây cản trở hàng hải quốc tế: “Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu nào không được gây cản trở cho việc hàng hải theo các con đường quốc tế thường dùng” Các thiết bị hay dụng cụ đã nêu trong mục này phải có các dấu hiệu nhận dạng chỉ rõ quốc gia đăng ký hay tổ chức quốc tế mà chúng phụ thuộc vào, cũng như, phải có
Bài viết của Nguyễn Hồng Thao đề cập đến vấn đề lấn biển và tạo đảo tại Biển Đông, cùng với sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ Tác giả phân tích các khía cạnh chính trị, kinh tế và quân sự liên quan đến tình hình căng thẳng trong khu vực Bài báo cung cấp cái nhìn sâu sắc về những tác động của việc lấn biển đối với an ninh và ổn định của Biển Đông, đồng thời nhấn mạnh vai trò của các quốc gia lớn trong việc định hình tương lai của khu vực này.
Theo Điều 260 của UNCLOS, các phương tiện báo hiệu thích hợp là cần thiết Tất cả các công trình và thiết bị xây dựng trên biển phải tuân thủ quy định của luật quốc tế và đảm bảo các điều kiện an toàn, nhằm tránh gây ảnh hưởng hoặc trở ngại đến hoạt động hàng hải và hàng không quốc tế.
Thực trạng Trung Quốc xây dựng chuỗi đảo nhân tạo trên quần đảo Trường