KHÁI LUẬN CHUNG VỀ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
Khái quát chung về nhãn hiệu
Nhãn hiệu nổi tiếng được xác định dựa trên danh tiếng và uy tín của nó Việc nghiên cứu các khía cạnh cơ bản về nhãn hiệu là cần thiết để hiểu rõ hơn về thuật ngữ “nhãn hiệu nổi tiếng” và những vấn đề pháp lý liên quan đến loại hình nhãn hiệu này.
Nhãn hiệu là một thuật ngữ lâu đời, gắn liền với hàng hóa và dịch vụ của các tổ chức và cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh Từ cách đây 3000 năm, thợ thủ công Ấn Độ đã khắc chữ ký trên tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng, trong khi các nhà sản xuất Trung Quốc đã bán hàng hóa mang nhãn hiệu tại Địa Trung Hải từ 2000 năm trước Nhãn hiệu ra đời nhằm đánh dấu nguồn gốc và phân biệt hàng hóa, dịch vụ, và ngày nay đã trở thành một dạng tài sản trí tuệ quý giá, liên quan chặt chẽ đến chất lượng và sự mong đợi của khách hàng.
Thuật ngữ "nhãn hiệu" đã được định nghĩa chính thức trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau sau một thời gian dài tồn tại và phát triển trong thực tiễn.
Các điều ước quốc tế đã ghi nhận chế định nhãn hiệu từ rất sớm, bắt đầu với Công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp được ký kết vào năm 1883 Việt Nam trở thành thành viên của Công ước này vào ngày 8/3/1949 Tiếp theo, Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại về quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định Trips) được Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ký kết vào năm 1995, cũng là một phần trong cam kết mà Việt Nam thực hiện khi gia nhập WTO vào ngày 1/1.
5 Trường ĐH Luật TP.HCM (2012), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, NXB Hồng Đức, tr 261
6 Trường ĐH Luật TP.HCM, sđd, tr 250
7 Phan Ngọc Tâm (2011), “Well – Known Trademark Protection – A comparative study between the laws of the European Union and Viet Nam”, Luận án Tiến sĩ, tr 27
8 Tham khảo tại: http://www.wipo.int/treaties/en/ShowResults.jsp?lang=en&treaty_id=2, truy cập ngày
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ, có hiệu lực từ ngày 10/12/2001, bao gồm chương hai quy định về quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là vấn đề bảo hộ nhãn hiệu.
Công ước Paris không định nghĩa rõ ràng về nhãn hiệu, nhưng tại Điều 6quinquies, nó nêu rõ các trường hợp mà việc đăng ký nhãn hiệu có thể bị từ chối hoặc bị bãi bỏ.
1 Khi các nhãn hiệu đó xâm phạm quyền của bên thứ ba tại nước có yêu cầu bảo hộ
2 Khi các nhãn hiệu đó không hề có bất cứ dấu hiệu phân biệt nào, hoặc chỉ bao gồm toàn các dấu hiệu hoặc chỉ dẫn được sử dụng trong thương mại để chỉ chủng loại, chất lượng, số lượng, mục đích sử dụng, giá trị, xuất xứ của hàng hoá, hoặc thời gian sản xuất, hoặc đã trở thành thông dụng trong ngôn ngữ hiện thời hoặc trong tập quán thương mại lành mạnh và lâu đời tại nước có yêu cầu bảo hộ
3 Khi các nhãn hiệu đó trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng, đặc biệt về bản chất chúng có thể gây nhầm lẫn cho công chúng Điều này được hiểu rằng nhãn hiệu không thể bị coi là xâm phạm trật tự công cộng chỉ vì lý do duy nhất là nhãn hiệu đó không phù hợp với một quy định nào đó của pháp luật về nhãn hiệu, trừ trường hợp chính quy định đó liên quan đến trật tự công cộng
Điều luật này xác định rằng nhãn hiệu không được bảo hộ nếu không có khả năng phân biệt hoặc có thể gây nhầm lẫn cho công chúng Do đó, có thể hiểu rằng tất cả các dấu hiệu khác có khả năng phân biệt đều có thể được sử dụng làm nhãn hiệu.
Tiếp nối quy định trong Công ước Paris, Hiệp định Trips đã đưa ra khái niệm nhãn hiệu tại khoản 1 Điều 15:
Tất cả các dấu hiệu hoặc tổ hợp dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp đều có thể trở thành nhãn hiệu hàng hóa Những dấu hiệu này bao gồm từ ngữ, tên riêng, chữ cái, chữ số, yếu tố hình họa và tổ hợp màu sắc Để được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa, các dấu hiệu này cần phải có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng Nếu các dấu hiệu không đáp ứng tiêu chí phân biệt, các quốc gia thành viên có thể từ chối việc đăng ký.
The commitment to intellectual property rights is outlined in the document available at the Ministry of Science and Technology's website, highlighting the importance of adhering to international standards For more details, visit: http://thanhtra.most.gov.vn/vi/article/cam-ket-ve-quyen-so-huu-tri-tue-wto, accessed on June 9, 2014.
Theo quy định tại trang 246 của tài liệu "10 Trường ĐH Luật TP.HCM", khả năng đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng Các quốc gia thành viên có quyền quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu nhìn thấy được.
Nhãn hiệu cần thỏa mãn hai yếu tố chính: đầu tiên, nó phải là một dấu hiệu; thứ hai, nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt sản phẩm và dịch vụ của các tổ chức hoặc cá nhân khác nhau Tuy nhiên, theo quy định của Trips, ngay cả khi nhãn hiệu không đáp ứng khả năng phân biệt, nó vẫn có thể được công nhận và bảo hộ thông qua quá trình sử dụng.
Trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, nhãn hiệu được định nghĩa là dấu hiệu hoặc sự kết hợp các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa và dịch vụ của một cá nhân hoặc tổ chức với hàng hóa và dịch vụ của người khác.
Các khái niệm về nhãn hiệu trong các văn bản khác nhau đều dựa trên hai yếu tố chính: nhãn hiệu phải là dấu hiệu và dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ Mặc dù các quy định quốc tế không cụ thể hóa dấu hiệu nào được công nhận là nhãn hiệu hay mức độ phân biệt cần thiết, chúng vẫn tạo nền tảng cho các quy định chi tiết tại từng quốc gia.
Nhãn hiệu nổi tiếng
Coca-Cola, McDonald's, Apple và Toyota là những thương hiệu nổi tiếng toàn cầu, được biết đến rộng rãi nhờ vào chất lượng sản phẩm, uy tín và sự phổ biến của chúng Sự tồn tại lâu dài và đặc thù riêng biệt của những nhãn hiệu này đã tạo nên sự khác biệt so với các thương hiệu thông thường.
Nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam lần đầu được định nghĩa trong Nghị định 06/2001/NĐ-CP ngày 1/2/2001, sửa đổi Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 về sở hữu công nghiệp Theo đó, nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng liên tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín, giúp nhãn hiệu đó được biết đến rộng rãi.
Tên thương mại, theo Khoản 21 Điều 4 Luật SHTT, được định nghĩa là tên gọi mà tổ chức hoặc cá nhân sử dụng trong hoạt động kinh doanh Mục đích của tên thương mại là phân biệt giữa các chủ thể kinh doanh khác nhau trong cùng lĩnh vực và khu vực hoạt động.
Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng đã được quy định rõ ràng trong Luật SHTT 2005, tại Khoản 20 Điều 4, nhấn mạnh rằng nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Các tiêu chí xác định một nhãn hiệu nổi tiếng bao gồm thời hạn sử dụng liên tục, uy tín sản phẩm và mức độ nhận biết của người tiêu dùng Tuy nhiên, thực tế cho thấy chưa có nhãn hiệu nào được công nhận chính thức bởi Cục SHTT do thiếu hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng các tiêu chí này Sự ra đời của Luật SHTT 2005 nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, nhưng câu hỏi đặt ra là liệu quy định mới này có phù hợp với thông lệ quốc tế hay không.
Nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại Điều 6bis Công ước Paris, yêu cầu các quốc gia từ chối hoặc huỷ bỏ đăng ký nhãn hiệu sao chép, bắt chước hoặc gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng, nhưng không đưa ra khái niệm cụ thể Hiệp định Trips tiếp tục làm rõ các đặc điểm và điều kiện để công nhận một nhãn hiệu là nổi tiếng, trong đó nhấn mạnh sự nhận biết của một bộ phận công chúng có liên quan như một tiêu chí quan trọng Tuy nhiên, Hiệp định này cũng không định nghĩa rõ ràng về nhãn hiệu nổi tiếng.
38 Khoản 2 Điều 1 Nghị định 06/2001/NĐ-CP
Theo Khoản 5 Điều 1 Nghị định 06/2001/NĐ-CP, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập dựa trên quyết định công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hà Thị Nguyệt Thu đã nghiên cứu về việc hoàn thiện pháp luật bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Bài viết có thể được tham khảo tại địa chỉ http://www.tks.edu.vn/portal/detailtks/6698_64_61_Hoan-thien-phap-luat-ve-bao-ho-nhan-hieu-noi-tieng-o-Viet-Nam-trong-dieu-kien-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te.html, truy cập ngày 20/4/2014.
41 Khoản 1 Điều 6 Công ước Paris
42 Lê Xuân Lộc và Mai Duy Linh, “Nhãn hiệu nổi tiếng, pháp luật và thực tiễn”, Tạp chí khoa học pháp lý, số
Theo Khoản 2 Điều 16 Hiệp định Trips, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới không đưa ra khái niệm cụ thể về nhãn hiệu nổi tiếng, nhưng khuyến nghị một số tiêu chí để đánh giá Cụ thể, nhãn hiệu cần phải được nhận biết bởi một bộ phận công chúng liên quan, đồng thời xem xét thời gian, mức độ và phạm vi địa lý của việc sử dụng nhãn hiệu đó.
Mặc dù đã tồn tại các quy định quốc tế từ lâu, nhưng vẫn chưa có một định nghĩa chính thức nào về nhãn hiệu nổi tiếng được công nhận.
Khái niệm "nhãn hiệu nổi tiếng" có sự khác biệt tùy thuộc vào quan điểm và cách đánh giá của từng quốc gia, và đến nay, không có định nghĩa chính xác nào về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng ở Hoa Kỳ Tình trạng này cũng tương tự tại Châu Âu và nhiều quốc gia khác Do đó, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều giao quyền cho các cơ quan chức năng, thường là Tòa án hoặc các Văn phòng quốc gia về Sở hữu công nghiệp, để xác định nhãn hiệu nổi tiếng trong từng trường hợp cụ thể.
Tại Trung Quốc, Luật Nhãn hiệu hàng hóa quy định rằng nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu đã được đăng ký và có một bộ phận khách hàng thực tế, được công nhận trong cộng đồng liên quan Do đó, một nhãn hiệu có thể được xem là nổi tiếng ở các quốc gia khác nhưng nếu chưa được đăng ký tại Trung Quốc, nó sẽ không được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng và không được hưởng chế độ bảo hộ theo pháp luật của nước này.
Thiếu một định nghĩa thống nhất về nhãn hiệu nổi tiếng trong các điều ước quốc tế dẫn đến mỗi quốc gia có cách nhìn riêng trong việc xác định nhãn hiệu nổi tiếng Tuy nhiên, một điểm chung là nhãn hiệu nổi tiếng phải được biết đến rộng rãi bởi một bộ phận công chúng liên quan Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng trong pháp luật Việt Nam được xây dựng phù hợp với xu hướng quy định quốc tế, nhưng còn đặt ra yêu cầu cao hơn.
44 Quy định về nhãn hiệu nổi tiếng trong các điều ước quốc tế sẽ được đề cập cụ thể trong phần 1.2.3 của chương này
Bài viết của Phan Ngọc Tâm, "Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo Pháp luật Châu Âu và Hoa Kỳ", đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4 (35)/2006, đề cập đến các quy định và chính sách bảo vệ nhãn hiệu nổi tiếng trong bối cảnh pháp luật của Châu Âu và Hoa Kỳ Tác giả phân tích sự khác biệt trong cách tiếp cận giữa hai khu vực này, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ nhãn hiệu nổi tiếng để duy trì quyền lợi của các chủ sở hữu Bài viết có thể được tham khảo tại trang điện tử Trường Đại học Luật TP HCM.
Điểm nhãn hiệu phải được nhận diện rộng rãi trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, không chỉ giới hạn trong một bộ phận công chúng nhất định.
1.2.2 Đặc điểm nhãn hiệu nổi tiếng
Nghiên cứu đặc điểm của nhãn hiệu nổi tiếng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất và những đặc trưng riêng biệt của nó so với nhãn hiệu thông thường Điều này cũng lý giải lý do tại sao nhà lập pháp lại đưa ra các quy định đặc thù cho nhãn hiệu nổi tiếng và đánh giá tính phù hợp của những quy định này đối với loại nhãn hiệu đặc biệt này.