Xây dựng Thành phố Hải Phòng thành trung tâm kinh tế biển của Vịnh Bắc Bộ, của cả nước, là địa phương mạnh về biển, giàu từ biển. Kinh tế biển phải là “hạt nhân” tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện cho Thành phố theo hướng CNH- HĐH. Khai thác tổng hợp và liên ngành tài nguyên biển, ven biển để phát triển kinh tế biển hiệu quả và bền vững. Kết hợp hài hòa kinh tế ven biển, kinh tế trên biển và các hải đảo với các khu vực nội địa của Thành phố và vùng để phát triển ổn định và bền vững. Gắn phát triển kinh tế biển với phát triển văn hóa – xã hội. Sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên biển.[14,Tr.203]
Đến năm 2020, Hải Phòng đã xác định 06 lĩnh vực kinh tế biển trọng tâm được ưu tiên phát triển theo thứ tự như sau:
71
+ Xây dựng khu kinh tế, các khu công nghiệp, các khu đô thị ven biển. + Công nghiệp đóng mới, sửa chữa tàu thủy và phương tiện nổi.
+ Kinh tế thủy sản. + Du lịch biển.
+ Phát triển các huyện đảo. Theo đó:
- Đẩy nhanh đầu tư xây dựng hạ tầng cảng, hiện đại hóa, nâng cao năng lực, chất lượng dịch vụ xếp dỡ hàng hóa để đến năm 2015 bảo đảm thực hiện lượng hàng thông qua các cảng trên địa bàn đạt 55-60 triệu tấn/năm; đến năm 2020 đạt 80- 100 triệu tấn/năm. Nhanh chóng triển khai xây dựng cảng cửa ngõ khu vực phía Bắc tại Lạch Huyện làm chức năng đầu mối trung chuyển. Đến năm 2020, cảng Lạch Huyện có quy mô 35 bến/8.320 m dài, trong đó có 06 bến container...Triển khai xây dựng cảng Nam Đồ Sơn phục vụ phát triển kinh tế và quốc phòng.
Đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa đội tàu biển, nâng cao năng lực vận tải và sức cạnh tranh, giữ vững vai trò trung tâm hàng đầu của cả nước và tiến tới vị trí mạnh trong khu vực. Mở rộng thị phần vận tải biển, bảo đảm vận chuyển trên 30% khối lượng hàng hóa xuất, nhập khẩu qua khu vực cảng Hải Phòng và Quảng Ninh (đến năm 2015) và trên 50% (đến năm 2020), vận chuyển thuê cho các nước khác.
Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ cảng như: dịch vụ đại lý tàu biển và môi giới hàng hải; dịch vụ lai dắt tàu biển; dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa tàu biển; dịch vụ cung ứng tàu biển; dịch vụ giao nhận và kiểm đếm hàng hóa; dịch vụ sửa chữa nhỏ tàu biển tại cảng; dịch vụ vệ sinh môi trường biển; dịch vụ xếp dỡ hàng hóa tại cảng biển; dịch vụ cứu hộ cứu nạn trên biển...Nâng cao năng lực cạnh tranh của các dịch vụ hàng hải để bảo đảm giá cả và chất lượng dịch vụ tại Hải Phòng tương đương với các nước trong khu vực và thế giới.
- Công nghiệp đóng mới, sửa chữa tàu thuyền và phương tiện nổi, phấn đấu đến năm 2020, Hải Phòng là trung tâm đóng mới và sửa chữa tàu thuyền lớn nhất Việt Nam, là trung tâm của khu vực và thế giới, đóng tàu có trọng tải lớn, tàu chuyên dùng tiêu chuẩn quốc tế. Tốc độ tăng trưởng trung bình trên 30%/năm, về đóng mới
72
tăng 30-35%/năm. Đóng được tàu trên 10 vạn DWT sau năm 2015; đến năm 2020 có thể đóng mới tàu vận tải đến 20-25 vạn DWT và các loại tàu chuyên dụng khác như tàu chở dầu, tàu container, công trình, tàu cuốc, khai thác dầu khí, hút bùn tiêu chuẩn quốc tế. Sửa chữa tàu trọng tải trên 100.000 tấn, chiếm 15-20% thị phần sửa chữa tàu của khu vực; đáp ứng 40-50% nhu cầu đóng tàu mới của cả nước.; 80% nhu cầu sửa chữa tàu sông vùng Bắc Bộ; trên 50% nhu cầu của cả nước về sửa chữa tàu biển. Đẩy nhanh tỷ lệ nội địa hóa trong công nghiệp đóng tàu (kể cả sản xuất động cơ thủy); phấn đấu đạt tỷ lệ nội địa hóa là 75% vào năm 2020.[31]
- Phát triển thủy sản để trở thành ngành sản xuất lớn, hiện đại, có năng suất và chất lượng cao, bền vững. Phấn đấu xây dựng Hải Phòng trở thành trung tâm thủy sản về giống, công nghệ, chế biến, xuất khẩu vùng duyên hải Bắc Bộ. Phát huy nội lực của các thành phần kinh tế để tổ chức sản xuất lại theo hướng chuyển đổi cơ cấu nghề cá biển, lấy phát triển nuôi biển làm trọng tâm về tỷ trọng và giá trị sản lượng, đưa tỷ trọng nuôi trồng lên 75%, khai thác 25% vào năm 2015 và tương ứng là 85% và 15% vào năm 2020. Duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân về giá trị sản xuất ngành thủy sản 8-10%/năm thời kỳ trước năm 2015 và trên 11%/năm thời kỳ 2015- 2020. Đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản, bảo đảm giá trị xuất khẩu tới năm 2015 đạt gần 100 triệu USD và 200 triệu USD tới năm 2020, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 15%/năm.
- Phát triển du lịch biển thành ngành kinh tế mũi nhọn tăng tỷ trọng đóng góp vào GDP của Thành Phố; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa; nâng cao mức sống, tạo việc làm; khai thác có hiệu quả, bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái biển; chia sẻ lợi ích cộng đồng dân cư. Phương hướng phát triển là phát huy ưu thế nguồn lực bên trong, kết hợp tranh thủ hợp tác bên ngoài để phát triển tổng hợp du lịch biển – núi – hải đảo, tạo ra sản phẩm du lịch và dịch vụ chất lượng cao cấp, độc đáo, uy tín cao. Hình thành trung tâm du lịch ven biển lớn tầm cỡ quốc gia và quốc tế ở các khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi trên cơ sở phát triển đa dạng các tuyến du lịch và các loại hình du lịch. Phát triển các tuyến du lịch gắn liền với Vịnh Hạ Long.
73
Từ nay đến năm 2020, Hải Phòng sẽ tập trung phát triển các khu du lịch sau: + Khu du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí cao cấp Đồ Sơn
+ Khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, chữa bệnh cao cấp đảo Cát Bà + Khu du lịch biển Bạch Long Vỹ
+ Khu du lịch sinh thái ven sông Đa Độ - Kiến Thụy + Khu du lịch Sông Giá – Thủy Nguyên
+ Khu du lịch phía Nam (Tiên Lãng, Vĩnh Bảo) + Khu du lịch nội thành Hải Phòng và lân cận.
Trong đó, trước năm 2015, tập trung cao cho hai khu vực Cát Bà và Đồ Sơn. Khu du lịch Đồ Sơn cần được xây dựng thành khu nghỉ dưỡng và tắm biển; là nơi nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí cho người dân trong nước và khách du lịch quốc tế, đặc biệt là khách du lịch cho các địa phương trong tuyến hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt – Trung; làm đầu mối cho tuyến du lịch Đồ Sơn – Cát Bà – Hạ Long, với những sản phẩm du lịch chủ yếu là nghỉ dưỡng, tắm biển, thể thao, nghiên cứu khoa học, vui chơi, giải trí, hội nghị, hội thảo, du lịch lễ hội, du lịch tín ngưỡng, di tích lịch sử. Khu du lịch Cát Bà cần được xây dựng thành khu du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng, chữa bệnh cao cấp; du lịch kết hợp khai thác, phát triển và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên (đặc biệt là hệ sinh thái rừng và biển). Phát triển các loại hình du lịch dưới nước, leo núi, thám hiểm hang động, nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái nhà vườn,...
Đầu tư đồng bộ hệ thống khách sạn, nhà hàng, giao thông, điện nước, thông tin liên lạc, tài chính ngân hàng...Phấn đấu đến năm 2015 có 50% phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế, trong đó có khách sạn quốc tế đạt tiêu chuẩn trên 4 sao.