Một phương pháp tính toán đang được thảo luận gần đây đó là coi hệ số CSPF và EER có mối quan hệ tuyến tính:
CSPF = 1.062 EER (350C)
Công thức này đƣợc đƣa vào TCVN 7830: 2015, sử dụng cho các loại điều hòa không khí phân cục không gắn bộ biến tần. Các máy ĐHKK có gắn bộ biến tần vẫn tính toán theo công thức trước đây. Nếu được chấp nhận, dây là sẽ là lần đầu tiên hệ số chuyển đổi đƣợc công bố. Theo đó, các nhà hoạch định chính sách, các nhà sản xuất, các nhà nghiên cứu,.. có thể dễ dàng so sánh mức độ tiết kiệm năng lƣợng của các loại điều hòa không khí trên một nền tảng chung.
Cũng theo dự thảo TCVN 7830: 2015, chúng ta có bảng đánh giá cấp hiệu suất năng lƣợng mới cho các loại ĐHKK theo hệ số CSPF.
Bảng 3.17. Cấp hiệu suất năng lƣợng (theo đề nghị của Vụ KHCN và TKNL - Tổng cục Năng lƣợng)
Kiểu thiết bị Năng suất lạnh danh định W (Btu/h)
Cấp
1 2 3 4 5
Một cụm - ≤ 2.80 ≤ 3.00 ≤ 3.20 ≤ 3.40 ≤ 3.60
Hai cụm
< 4500
( < 15000) ≤ 3.20 ≤ 3.40 ≤ 3.60 ≤ 3.80 ≤ 4.20 4500 ≤ < 7000
(15000 ≤ < 24000) ≤ 3.00 ≤ 3.20 ≤ 3.40 ≤ 3.60 ≤ 4.00
Kiểu thiết bị Năng suất lạnh danh định W (Btu/h)
Cấp
1 2 3 4 5
7000 ≤ < 12000
(24000 ≤ < 41000) ≤ 2.80 ≤ 3.00 ≤ 3.20 ≤ 3.40 ≤ 3.80
Bảng 3.18. So sánh giữa các kết quả tính toán CSPF
STT Tên máy
TCVN 7830: 2012 TCVN 7830:
2015
CSPF(2015) /CSPF (2012) EER Cấp
HSNL CSPF Cấp
HSNL CSPF Cấp
HSNL
1 Máy số 1 3.116 Cấp 3 3.41 Cấp 3 3.31 Cấp 1 0.11 3.23 2 Máy số 2 2.817 Cấp 2 2.94 Cấp 0 2.99 Cấp 0 0.05 1.70 3 Máy số 3 3.281 Cấp 4 3.53 Cấp 3 3.48 Cấp 2 0.05 1.42 4 Máy số 4 3.096 Cấp 3 3.25 Câp 2 3.29 Câp 1 0.03 0.92 5 Máy số 5 3.387 Cấp 4 3.64 Cấp 4 3.60 Cấp 2 0.05 1.37 6 Máy số 6 3.500 Cấp 5 3.75 Cấp 5 3.72 Cấp 3 0.04 1.07 7 Máy số 7 3.038 Cấp 3 3.21 Cấp 3 3.23 Cấp 1 0.01 0.31
Trung bình 0.05 1.43
Hình 3.2. Sơ đồ phân bố CSPF theo EER
3 3.1 3.2 3.3 3.4 3.5 3.6 3.7 3.8 3.9
3 3.1 3.2 3.3 3.4 3.5 3.6
CSPF 2012 CSPF 2015 Linear (CSPF 2012) Linear (CSPF 2015)
EER CSPF
Có thể thấy rằng, giữa CSPF theo cách tính của năm 2012 và cách tính dự thảo năm 2015 có độ chênh lệch không đáng kể, trung bình 1.43%. Sơ đồ phần bố CSPF của từng tiêu chuẩn năm 2012 và 2014 theo EER có độ lệch không đáng kể.
Nhƣ vậy, việc sử dụng công thức này nhằm giảm bớt số lần thử và dễ dang tính toán là một hướng đi hiệu quả.
Bảng phân cấp hiệu suất năng lƣợng dự thảo năm 2015 đƣa các máy ĐHKK không gắn bộ biến tần về phân bố ở các cấp hiệu suất thấp hơn, phân bố từ 1 đến 3.
Muốn đạt đƣợc cấp 4 và 5 đòi hỏi rất nhiều nỗ lực cải tiến về công nghệ.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nhƣ vậy, chúng ta thấy việc đánh giá và kiểm định điều hòa không khí là một nhu cầu cấp thiết và cũng là một thị trường vô cùng tiềm năng. Trên thế giới, các tiêu chuẩn và quy trình thử nghiệm đang dần đƣợc chuẩn hóa. Tiêu chuẩn Việt Nam cũng cần luôn cập nhật theo dòng chảy chung của thế giới nhƣng cũng cần phù hợp với các điều kiện ở Việt Nam .
Để xác định đƣợc đặc tính năng lƣợng của điều hòa chúng ta cần phải có những kiến thức chuyên ngành sâu sắc về điều hòa không khí và các tiêu chuẩn.
Qua luận văn này, chúng ta có thể hoàn toàn chuyển đổi từ phương pháp xác định đặc tính năng lƣợng của ĐHKK theo chỉ tiêu EER sang chỉ tiêu CSPF; hệ số chuyển đổi theo cả hai cách nêu ra trong tiêu chuẩn Việt Nam năm 2012 và dự thảo tiêu chuẩn năm 2015 dùng để tính toán hệ số CSPF là đáng tin cậy.
Tuy nhiên, số lƣợng các máy thử nghiệm đƣa vào trong tính toan còn hạn chế, các thông số đƣợc sử dụng trong tính toán không đƣợc xây dựng trong điều kiện nhiệt độ tại Việt Nam nên có thể không đảm bảo kết quả chính xác. Nhằm phát triển tiêu chuẩn đƣợc chính xác, tin cậy và phù hợp hơn, tôi có những ý kiến đề xuất nhƣ sau:
- Trong thời gian tới chúng ta cần xác định, thống kê điều kiện thời tiết, điều
kiện hoạt động chung tại Việt Nam đƣa ra các thông số tính toán chính xác hơn;
- Cần thống nhất một chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của ĐHKK để các khách hàng có thể dễ dàng đánh giá và chọn đƣợc mặt hàng tiết kiệm điện năng vừa tiết kiệm cho chính họ vừa góp phần vào xu hướng tiết kiệm năng lƣợng của quốc gia và của thế giới;
- Sử dụng hệ số chuyển đổi để giảm bớt số lần thử nghiệm nhằm giảm thời gian và chi phí thử nghiệm;
- Với các cách tính toán này, mặc nhiên các máy ĐHKK không có biến tần sẽ nằm ở các cấp thấp từ 1 đến 3, các máy ĐHKK có biến tần ở các cấp cao hơn
4 và 5. Việc nghiên cứu, tính toán để phân cấp hiệu suất năng lƣợng cần thật chính xác và phù hợp hơn.
- Nhanh chóng thực hiện chuyển đổi tiêu chuẩn cũ đối với các mẫu ĐHKK đã thử nghiệm sang tiêu chuẩn mới.
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng ta đã sử dụng hệ số suy giảm CD = 0.25 và các hệ số chuyển đổi trong tiêu chuẩn TCVN 7831: 2012 và dự thảo
tiêu chuẩn TCVN 7830: 2015 đƣợc tham khảo từ các tiêu chuẩn Quốc tế. Các hệ số này hoàn toàn có thể tính toán đƣợc. Nếu có thêm thời gian nghiên cứu và kinh phí thử nghiệm, tôi hy vọng có thể phát triển luận văn này, giúp cho việc cải thiện tiêu chuẩn đánh giá hiệu suất năng lƣợng cho ĐHKK phù hợp hơn đối với điều kiện ở Việt Nam.