Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán
2.3.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán mô bệnh học
- Là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán các bệnh lý BTC.
- Chẩn đoán mô bệnh học các bệnh phẩm sinh thiết theo tiêu chuẩn phân loại của Khoa Giải phẫu bệnh lý bệnh viện Phụ sản Trung ương.
- Vô sinh không rõ nguyên nhân - Người bệnh đã làm IUI hoặc IVF nhiều lần thất bại
2.3.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán hình ảnh trên soi buồng tử cung
* Hình ảnh bình thường
+ Ống CTC: ống CTC có những nếp hình quạt, mở ra những rãnh, tất cả được phủ bởi lớp tế bào tuyến mỏng, hồng, vây quanh là hệ mạch.
+ Buồng TC: hình ảnh của niêm mạc TC thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt và tình trạng nội tiết của người phụ nữ. Soi BTC đánh giá được sự sung huyết, phân bố mao mạch, hình ảnh nhẫn hay dầy của niêm mạc TC.
+ Lỗ VTC: quan sát tốt nhất khi làm căng BTC bằng CO2 khi hai sừng TC không ở sâu quá và niêm mạc TC không dầy. Độ mở của lỗ phụ thuộc vào áp lực căng BTC. Khi lỗ hé mở, có thể nhìn thấy phần gốc của lòng VTC.
Một nếp niêm mạc hình nhẫn hoặc bán nguyệt bao quanh VTC.
* Hình ảnh bệnh lý BTC
+ Viêm niêm mạc TC: niêm mạc TC có thể bị phá hủy hoàn toàn, hiện tượng viêm sẽ lan tới cơ TC nhất là ở phụ nữ mãn kinh. Niêm mạc TC sung huyết, phù nề đỏ sẫm, có những điểm xuất huyết.
+ U xơ TC dưới niêm mạc: là một khối tròn lồi vào trong BTC, niêm mạc phủ thường là thiểu sản, sáng hơn niêm mạc TC. Các mạch máu ở bề mặt có thể chảy máu, nhưng biến mất khi áp lực của môi trường tăng hoặc tiếp xúc với máy soi.
+ Polyp niêm mạc TC: polype cơ năng, thường có kích thước nhỏ, cuống ngắn và thường khá mềm, màu sắc và các mạch máu giống như là niêm mạc xung quanh. Polyp thực thể có thể đạt tới kích thước lớn và cuống dài, bị ép giữa các thành của TC, màu vàng đỏ và thường bị hoại tử, áp lực của CO2 làm nó dính vào thành TC, rất di động lên đầu ống kính soi khó thăm dò mật độ của nó
+ Quá sản niêm mạc TC
- Quá sản đơn thuần: niêm mạc TC dày, có thể tới 20 – 30 mm, bề mặt nhẵn và lấp lánh đôi khi mấp mô màu hồng nhạt, các mạch máu niêm mạc dễ bị vụn ra khi tiếp xác với ống soi, nói chung có thể nghi ngờ khi nhìn thấy hình ảnh niêm mạc không tương ứng với thời điểm trong vòng kinh hoặc khi ấn đèn soi lên bề mặt niêm mạc thì thấy có rãnh sâu trên 2 mm, chứng tỏ có quá sản.
- Quá sản dạng polyp: chẩn đoán dễ vì có đặc tính điển hình như niêm mạc có dạng polype, màu sắc, mật độ của các mạch máu biểu hiện một niêm mạc tăng sinh kéo dài.
- Quá sản tuyến nang: biểu hiện sự phát triển loạn sản của niêm mạc.
Các tuyến nang có dạng túi màu phớt xanh và trong suốt, chúng phủ dày bề mặt niêm mạc.
+ Dính BTC: dính xuất hiện như một cái cột có độ dày khác nhau, nối hai mặt BTC. Phần đáy rộng hơn ở giữa, hình ảnh giống như đụn cát, trục của dính có thể là trước hoặc sau màu sắc ánh trắng so với phần còn lại của cơ TC, nhưng các mạch máu tưới không rõ. Nếu dính nhiều và trải rộng sẽ thấy một loạt các cột có thể dính một phần vào nhau, đôi khi tạo thành một mạng mà trong đó có các lỗ mở. Hình ảnh này không thể nhầm với đáy TC hay lỗ VTC.
+ Vách ngăn BTC: Soi BTC xác định được mức độ của vách ngăn là hoàn toàn, một phần hoặc xác định độ dày của vách ngăn; mức độ thiểu sản TC; sự có mặt của các tổn thương phối hợp.
2.3.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán hình ảnh trên siêu âm
* U phát triển trong cơ TC
- Khối âm vang đậm, có bờ thưa âm vang hơn tổ chức cơ.
- TC to hơn bình thường và thay đổi hình dạng, có chỗ lồi lên.
- Đường âm vang niêm mạc TC cong vòng do khối u phát triển làm biến dạng.
* U dưới niêm mạc TC
- TC to, vùng âm vang đậm âm ở trong buồng TC có ranh giới rõ.
- Vùng âm vang không đều, đoạn dưới TC phình to, trong trường hợp khối u có cuống phát triển xuống phía dưới.
* Khối u ở CTC
Phần ống cổ TC to lên, bàng quang bị đẩy lên phía trên, âm vang u ở CTC khối u ở thân TC.
* Quá sản niêm mạc TC
- Vùng âm vang mạnh đồng nhất, bờ đều nhẵn trong BTC có độ dày trên 12 mm.
- Có thể có những vùng âm vang thưa hay không có âm vang của tổ chức chảy máu hoặc hoại tử khu trú, hình ảnh này ít gặp thường do viêm nội mạc TC kết hợp, vì vậy chẩn đoán siêu âm dễ nhầm với viêm niêm mạc TC.
* Polype niêm mạc TC
- Là hiện tượng tăng sinh khu trú của lớp niêm mạc TC và có phản âm ánh sáng đồng nhất trên siêu âm.
- Ở nửa đầu của chu kỳ kinh nguyệt, có sự khác biệt rõ giữa polype với phần niêm mạc kế cận thường rất mỏng và có phản âm kém.
- Ở nửa sau chu kỳ kinh nguyệt, toàn bộ niêm mạc TC dày lên và có phản âm sáng. Siêu âm bơm nước BTC sẽ giúp cho polyp được dễ dàng phát hiện hơn.
2.3.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán hình ảnh trên X quang buồng tử cung
* Hình ảnh bình thường
- Ống cổ TC: hình thoi hay quả ô liu, có bờ khía.
- Eo TC: phần thu hẹp dài từ 10mm đến15mm.
- Buồng TC: hình tam giác khi nhìn thẳng,mỗi cạnh khoảng 5 cm.Nhìn nghiêng ,nó có hình quả lê và thường gấp về phía trước đối với ống CTC.
* Các hình ảnh bệnh lý
- Các dị dạng bẩm sinh: sự tồn tại của vách giữa một phần hay hoàn toàn, của một hay hai buồng TC, của một hay hai cổ TC cho phép xếp thành các loại TC có vách hoàn toàn hoặc một phần, TC hai sừng hai cổ, hai sừng một cổ.
- Polyp niêm mạc TC: chúng thường có dạng một hình khuyết tròn đều, có cuống và không ảnh hưởng đến buồng TC.
- Các u xơ dưới niêm mạc TC: không cuống hoặc có cuống, cho các hình khuyết đều, tròn trong buồng TC.
- Viêm niêm mạc TC: biểu hiện điện quang của chúng không điển hình.
Bờ của buồng TC thì có gai và rải rác những hình khuyết nhỏ. Các tổn thương VTC thường phối hợp.
- Quá sản niêm mạc TC: các đường bờ của buồng TC hình gợn sóng, hình răng cưa, thường lan tỏa. Trong các thể tiến triển, người ta thấy nhiều hình khuyết của bờ.
- Dính BTC: dính cho thấy các hình khuyết, dạng hình dọc, do các vùng dính niêm mạc trước và sau, thứ phát sau nhiễm khuẩn, chấn thương.