Kiểu địa hình tích tụ

Một phần của tài liệu Báo cáo thực tập khoáng sản TẠI THÀNH PHỐ LẠNG SƠN (Trang 23 - 28)

Đây là kiểu địa hình được thành tạo do quá trình tích tụ các vật liệu trầm tích trẻ Đệ Tứ trong khu vực. Chúng phân bố dọc sông Kỳ Cùng và các suối trong vùng nghiên cứu.

Dựa vào nguồn gốc loại hình vật liệu tích tụ chúng ta chia thành hai phụ kiểu địa hình sau:

- Phụ kiểu tích tụ thường xuyên - Phụ kiểu tích tụ hỗn hợp

4.1. Phụ kiểu tích tụ thường xuyên

Kiểu địa hình này được thành tạo do tích tụ các vật liệu bồi tích của sông Kỳ Cùng và các suối trong vùng. Phụ kiểu địa hình có diện tích phân bố rộng ở phía Nam thành phố. Bề mặt kiểu địa hình này là đá tích tụ sét pha, cát pha, cát, sỏi, cuội thành tạo ở kỷ Đệ Tứ.

Do vận động kiến tạo nâng, hạ mà hình thành bốn dạng địa hình đặc trưng của phụ kiểu địa hình này:

- Thềm bậc một - Thềm bậc hai - Thềm bậc ba - Bãi bồi

a. Thềm bậc một

Thềm này có diện tích lớn nhất trong phụ kiểu địa hình tích tụ thường xuyên, phần lớn là xã Mai Pha.

Bề mặt thềm khá bằng phẳng, ít thay đổi, phủ lớp sét pha, cát pha, màu hồng, nâu sẫm,

chiều dày từ vài mét đến hơn chục mét. Mặt thềm cao hơn mực nước sông từ 6-12m.

Đây là diện tính canh tác lớn nhất của dân địa phương còn số khác là khu nhà ở dân cư.

b. Thềm bậc hai

Thềm này có diện tích không đáng kể, phân bố chủ yếu ở Nà Chuông và một số các nơi như ven đền thờ Trần Hưng Đạo, liền kề với thềm bậc một. Độ cao của thềm bậc hai so với thềm bậc một khoàng 5-7m, bề mặt không bằng phẳng, đôi chỗ lồi lõm hoặc bị phân cắt. Trên bề mặt là lớp cuội lẫn sét, cuộn có kích thước từ 4-6cm tròn cạnh, thành phần chủ yếu là thạch anh. Sét thường có màu vàng nhạt, phớt xám lẫn cát bột kết.

Thềm bậc hai là thềm hỗn hợp có tuổi Pleistoxen.

c. Thềm bậc ba

Thềm bậc ba phân bố ở khu vực Nà Chuông, phía Thác Trà. Bề mặt thềm bị thay đổi do bóc mòn, trên bề mặt thềm bậc ba ở khu vực Nà Chuông phủ lớp đá cuội khá cuội khá lớn, cuội tảng khá tròn cạnh, thành phần chủ yếu là thạch anh.

d. Bài bồi

Phân bố dọc hai bên bờ sông Kỳ Cùng, bãi bồi rộng từ 50m đến hàng trăm met, dài từ 200-500m, độ cao so với mực nước sông hiện tại từ 0.5-1.0m. Bề mặt bãi bồi có dạng lượn sóng, thoải, hơi nghiêng về phía lòng sông. Cấu tạo nên các bãi bồi chủ yếu là trầm tích bởi rời, cuội, sỏi, cát, sét, kích thước từ 5-10cm, độ mài mòn kém trung bình.

Bãi bồi dễ bị ngập nước vào mùa mưa,dễ bị thay đổi về đặc điểm bề mặt. Bãi bồi có thể được thành tạo vào Holoxen muộn.

4.2. Phụ kiểu địa hình tích tụ hỗn hợp

Đây là kiểu địa hình phân bố ở cấc thung lũng lớn có suối chảy qua. Trong vùng nghiên cứu thì kiểu địa hình phân bố ở thung lũng Na Sa, Nà Chuông và phía Tây Bản Cằm. Thành tạo nên phụ kiểu địa hình này là các vật liệu trầm tích do dòng tạm thời, dòng thường xuyên, dòng suối. Các vật liệu chủ yếu là sét pha, cát pha, mảnh vụn, cuội, sỏi, sạn. Nhìn chung các vật liệu này có độ chọn lọc, mài mòn ở mức độ trung bình hoặc yếu.

Bề mặt ở đây tương ứng thềm bậc một sông Kỳ Cùng dự kiến tuổi Holoxen sớm có chỗ bề mặt không đều, dạng lõm ở giữa đã được dân địa phương canh tác ở dạng

ruộng bậc thang. Vật liệu trầm tích ở đây chủ yếu là sét pha, cát pha và một ít mảnh vụn. Bề mặt thung lũng này có tuổi đầu Holoxen.

ĐỊA CHẤT THỦY VĂN VÀ ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH

Vấn đề địa chất thuỷ văn vùng thành phố Lạng Sơn đã được tiến hành nghiên cứu từ nhiều năm nay, qua các cơ quan chuyên môn, qua các công việc khai thác nước ngầm và qua việc giảng dạy thực tập, nghiên cứu ở Trường đại học Mỏ - Địa chất.

Chúng tôi xin trình bày ba vấn đề cơ bản về đặc điểm địa chất thuỷ văn của vùng nghiên cứu đó là:

- Đặc điểm nước mặt

- Phân chia các tầng và các phức hệ chứa nước dưới đất

- Khả năng lưu thông nước ngầm và cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất tại khu vực thành phố Lạng Sơn.

1. Đặc điểm nước mặt

Lượng nước mặt trong vùng nghiên cứu bao gồm nước mưa, nước ngưng tụ, nước sông Kỳ Cùng.

Sông Kỳ Cùng chảy qua thành phố Lạng Sơn từ Đông sang Tây với chiều dài khoảng 20km qua đá vôi hệ tầng Bắc Sơn, qua các trầm tích và phun trào của các hệ tầng trong vùng. Sông có nước chảy quanh năm, lưu lượng nước sông từ vài chục mét khối đến vài nghìn mét khối nước trong một giây.

Lượng nước mặt chảy vào thành phố Lạng Sơn gồm nước sông Kỳ Cùng và các suối trong vùng trên diện tích 81km2. Nếu lấy lượng mưa mức trung bình là 1700mm/năm, thì chỉ tính riêng lượng mưa đã có trên 200m3 nước đổ vào sông Kỳ Cùng. Một lượng nước lớn trong số này thấm xuống sâu, bổ cập cho nước trong các hang động Karst, các khe nứt và lỗ hổng của đất đá trong vùng.

Vùng nghiên cứu có ba con suối lớn: Suối KiKét, suối Na Sa và suối Lauti. Phần lớn lượng nước của suối Nasa được dồn vào thành phố Lạng Sơn qua suối Lauli. Một lượng không nhỏ của nước suối Lauli đã thấm xuống sâu. Vì vậy việc đảm bảo vệ sinh môi trường rất cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng.

2. Phân chia các tầng và phức hệ hệ chứa nước dưới đất.

2.1. Phức hệ chứa nước trong các thành tạo Đệ Tứ

Các thành tạo Đệ Tứ phân bố rộng rãi trong vùng nghiên cứu gồm trầm tích, sườn tích, bồi tích ven sông Kỳ Cùng. Các thành tạo này bao gồm cát pha, cuội, sỏi, dăm, sạn là vật liệu bở rời chưa gắn kết. Chiều dày của các thành tạo này từ vài chục cm đến 10cm.

Trong vùng nghiên cứu chưa phát triển tầng cát, sạn, cuội, sỏi thuần khiết có tuổi Đệ Tứ có khả năng cấp nước ngầm tốt. Nước mưa với hàm lượng nhỏ trong tầng chủ yếu là nước thấm, nước không màu, không mùi cùng nhiều nước trong tầng dễ bị nhiễm bẩn.

2.2. Tầng chứa nước trong hệ tầng Na Dương

Các trầm tích hệ tầng Na Dương phân bố dọc thung lũng Nasa với chiều rộng từ 100- 300m, kéo dài hơn 4km. Các đá gồm sạn kết, cát kết, sạn cát kết, bột kết có lẫn vật chất thải, ở dạng thấu kính, dạng tuổi Neogen.

Trong thành phần trầm tích trên rất giày sét cao lanh do phong hoá từ Felpat, nên chúng lấp đầy các lỗ hổng làm nước ngầm rất khó lưu thông lượng nước trong tầng này nhỏ. Nước thuộc dạng khe nứt, nước thấm rỉ lưu lượng từ 0,01-0,07lit/s. Nước không màu, không mùi, không vị thuộc loại CloruaNatri, Clorua Canxi.

2.3.a. Tầng chứa nước trong các thành tạo hệ tầng Tam Danh và Tam Lung Các thành tạo cảu hệ tầng Tam Danh và Tam Lung phân bố ở phía Tây Bắc vùng nghiên cứu chủ yếu thuộc xã Hoàng Đồng.

Các đá cuội, sạn kết, cát kết, bột kết, ryolit, andezit, varyolit, bazan. Địa hình bao gồm các đá nói trên có độ cao tương đối lớn so với vùng.

Nước dưới đất là nước khe nứt, nước trong đứt gãy, nước trong lỗ hổng của các đá cát kết, sạn kết, cuội kết. Nước trong tầng phong hoá cũng có giá trị nhất định. Trong nước dưới đaats thuộc hai phân vị nói trên có chứa nhiều sắt, canxi, silic tùy thuộc vào môi tường khu vực tàng trữ và lưu thông nước dưới đất.

Lưu lượng nước dưới đất trong các tầng nói trên thay đổi từ vài phần l/s đến vài l/s cung cấp cho sinh hoạt với quy mô nhỏ.

2.3.b. Phức hệ chứa nước trong các trầm tích hệ tầng Mẫu Sơn và hệ tầng Nà Khuất.

Phức hệ chứa nước này nằm ở ĐB và ĐN của vùng nghiên cứu. Do đặc điểm thuỷ văn của các đá trong hệ tầng nói trên mà có thể phân ra hai hệ tầng chứa nước như sau:

a. Tầng chứa nước trong các trầm tích vụn thô trong hệ tầng Mẫu Sơn

Trong vùng nghiên cứu tầng chứa nước chủ yếu phân bố ở phía ĐB thành phần chủ yếu của hệ tầng gồm dăm kết, sạn kết, sạn kết, cát kết, bột kết, sét kết có màu sặc sỡ.

Chiều dày của hệ tầng có màu sặc sỡ dày từ 300-400m, trong các cấu tạo đơn nghiêng.

Mức nếp lòm hoặc như ở bảo Cảm và ĐN bản Đông. Trong tầng đá phát triển một số đứt gãy, khe nứt phương TB-ĐN, ĐN-TN, các đá ở đây có lỗ hổng khá lớn chiều dày trung bình nên có khả năng thấm và giữ nước tốt. Có độ pH=5,5-6,0 nước có chất lượng tốt dùng cho sinh hoạt. Tuy nhiên do trầm tích nằm tương đối cao nên khả năng cấp nước bị hạn chế.

b. Tầng chứa nước trong các trầm tích hệ tầng Nà Khuất

Các thành tạo của hệ tầng này phân bố ở hai dải phía ĐB từ Phai Luông tới Nasa và ở phía nam thung lũng Nà Chuông. Các đá chủ yếu là bột kết, sét kết, cát kết hạt mịn cơ cấu tạo phân lớp từ 10-60cm. Trong các đá phát triển một số đứt gãy phương TB-ĐN, ĐB-TN quy mô nhỏ và trung bình. Đá chiếm nhiều lớp nhét Felpat đã phong hoá thành cao lang do các lỗ hổng và khe nứt do đó hạn cế khả năng lưu thông nước ngầm. Nước thuộc loại khe nứt, nước thấm rỉ, lưu lượng nhỏ tù ,01-0,03l/s.

2.4. Phức hệ chứa nước trong hệ tầng Khôn Làng

Các đá chủ yếu phân bố ở phía TB, TN phía Đông vùng nghiên cứu gồm đá phun trào axit, ryolit pocfia và tính của chúng. Đá có màu xanh lục, xanh phớt vàng, màu tím, dạng khối phân lớp dày. Về cơ bản đá này khá đặc xít, đông cứng từ các dung dịch magma axit nóng chảy. Do đó độ xốp và lỗ hổng thấp. Tuy nhiên ở các lớp cát kết và tuf có độ lỗ hổng lớn hơn. Phần trên của chúng lại bị phong hoá nên có khả năng cấp nước cục bộ.

Nước trong hệ tầng chủ yếu là nước khe nứt, vỏ phong hoá. Nước thuộc loại cacbonat Natri, độ pH từ 5-7, dùng trong sinh hoạt.

2.5 Phức hệ chứa nước trọng hệ tầng Lạng Sơn và hệ tầng Kỳ Cùng

Phức hệ chứa nước trong hệ tầng Lạng Sơn và Kỳ Cùng phân bố theo 3 dài chính:

+ Dải thứ thất từ phía Tây Bắc kéo dài xuống Tây Nam + Dải thứ hai từ phái Đông Bắc kéo xuống Đông Nam + Dải thứ ba phân bố ở phía Nam vùng nghiên cứu

Phần lớn các đá thuộc hệ tầng Lạng Sơn gồm cát kết, bột kết, sét kết có cấu tạo phân nhịp với chiều dài khoảng hơn 50m và các lớp cát bột kết, sét kết, sét vôi chiều dày 150m. Nước trong tầng này cơ bản là nước khe nứt, ở một số nới đá bị nứt nẻ mạnh và cắt khá sâu, tạo điều kiện tập trung nước ngầm. Nước có độ pH từ 6-7 thuộc loại cabonat canxi lưu lượng từ 0,01 đến 0,7 hoặc 0,8 lít/s. Nước có độ pH: 6,5-7,5. Các đá ở phần trên phức hệ này là cát kết hạt trung, hạt mịn bột kết, sét kết có cấu tạo phân nhịp đá sét vôi phân lớp mỏng từ vài cm đến 1-2m tập lớp dày khoảng 15-80m, có thể hình thành các hang Karst lưu lượng 0,3-3 lít/s.

2.6. Phức hệ chứa nước các thành tạo lục nguyên các bonat hệ tầng Đồng Đăng.

Phần dưới chủ yếu là cát kết, bệt kết, sét kết đá silic và bauxite có chiều dày vài chục met.

Phần giữa chủ yếu là đá vôi có chiều dày từ vài chục mét đến vài trăm mét. Nước trong tầng này gồm nước khe nứt và nước Karst. Nước thuộc cacbonat natri-canxi, nước không mùi, không vị, lưu lượng 0,1-0,3lit/s, nước ding trong sinh hoạt quy mô vừa và nhỏ.

2.7. Phức hệ chứa nước trong hệ tầng Bắc Sơn

Đá của hệ tầng phân bố ở khu vực trung tâm vùng nghiên cứu chủ yếu là đá vôi màu xám giàu cacbonat canxi, có khả năng hoà tan tốt, các đá ở đây có chiều dày khá trên dưới 1000m trong các cấu tạo nếp lồi, nếp lõm thoải, nếp uốn ngăn hoặc đơn nghiêng.

Trong các đá này phát triển nhiều khe nứt đứt gãy, tạo điều kiện hoà tan đá vôi mạnh mẽ. Nước ở đất là nước Karst, không màu, mùi, vị, lưu lượng 0,5-20 lít/s.

Một phần của tài liệu Báo cáo thực tập khoáng sản TẠI THÀNH PHỐ LẠNG SƠN (Trang 23 - 28)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(43 trang)
w