Các yếu tố chủ quan từ ngân hàng

Một phần của tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh phú thọ (Trang 95 - 99)

Chương 3. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI NHÁNH PHÚ THỌ

3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay tại BIDV Phú Thọ

3.3.2. Các yếu tố chủ quan từ ngân hàng

Thứ nhất, chính sách hỗ trợ khách hàng sau khi vay vốn chưa tốt: Hiện nay mối quan hệ giữa cán bộ QLKH và khách hàng còn chưa tốt. Sau khi cho vay xong, các cán bộ QLKH thường ít quan tâm đến tình hình kinh doanh của khách hàng mà chỉ lo tìm kiếm những khách hàng mới do gánh nặng giao chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, việc khách hàng vay vốn gặp phải những khó khăn lớn là điều dễ dàng xảy ra, nếu cán bộ QLKH không nắm bắt được tình hình tài chính của khách hàng, không trợ giúp họ trong việc giải quyết những khó khăn thì nguy cơ chậm trả lãi, vốn chắc chắn sẽ xảy ra.

Ngân hàng thường bị động trong việc giải quyết các khó khăn cùng với khách hàng.

Các cán bộ QLKH thường chỉ gọi điện cho khách hàng để đôn đốc, nhắc nhở trả nợ chứ không quan tâm đến khó khăn mà khách hàng gặp phải.

Thêm nữa, các nghiệp vụ cho vay chưa đa dạng hoá. Các món vay đối với khách hàng vay được thực hiện tại BIDV Phú Thọ chủ yếu tập trung vào hai nghiệp vụ là cho vay ngắn hạn từng lần và cho vay theo hạn mức. Hai phương thức này mang tính thụ động, hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng, ngân hàng hoàn toàn không chủ động trong cho vay. Nghiệp vụ thấu chi và cho vay luân chuyển gần như chưa được áp dụng đối với khách hàng mặc dù đã có sản phẩm tương ứng của BIDV Việt Nam.

Thứ hai, các công cụ chính sách như quy trình tín dụng, phân loại khách hàng,… vẫn còn nhiều bất cập.

Hệ thống các quy định, quy trình tín dụng của BIDV Việt Nam là rất lớn, lại được thay thế và sửa đổi thường xuyên (bảo đảm sự linh hoạt theo tình hình thị trường) nên việc cập nhật và thực hiện theo đúng văn bản chỉ đạo của BIDV gặp không ít khó khăn nhất là đối với cán bộ trẻ mới được tuyển dụng, thời gian làm việc ngắn, kinh nghiệm và kiến thức tổng hợp chưa có nhiều.

Trong giai đoạn trước (khi vẫn thực hiện theo mô hình cũ), việc cán bộ QLKH của BIDV được giao gần như toàn bộ khoản vay dẫn đến nhiều khi quy trình cho vay không được tuân thủ chặt chẽ, quá trình tác nghiệp có thể dễ dàng bỏ qua một số bước (nhỏ) trong quy trình hoặc không tuân theo thứ tự các bước để phục vụ khách hàng

nhanh nhất (đặc biệt là những khoản vay tại các Phòng Giao dịch). Điều này có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cho vay, nếu kéo dài thời gian sẽ dễ dẫn đến tiêu cực.

Sau khi thực hiện chuyển đổi mô hình TA2, tình trạng nêu trên đã được khắc phục đáng kể, với việc xuất hiện thêm một bộ phận thẩm định độc lập, bộ phận quản trị tín dụng, giữa bộ phận quản lý khách hàng, bộ phận quản trị tín dụng và bộ phận thẩm định vừa phối hợp với nhau giải quyết công việc, vừa giám sát lẫn nhau nên các quy định, quy trình cho vay được tuân thủ chặt chẽ hơn. Hiệu quả cho vay dưới góc độ tuân thủ quy định, quy trình của BIDV đã được nâng lên đáng kể.

Hệ thống các chỉ tiêu xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV đối với các khách hàng doanh nghiệp được ban hành từ năm 2006 (hiện tại BIDV chỉ mới triển khai thực hiện chương trình xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng là doanh nghiệp, chương trình xếp hạng tín dụng nội bộ đối với cả khách hàng cá nhân vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm và chỉnh sửa), các tiêu chí xếp hạng tín dụng nội bộ đối với doanh nghiệp BIDV xây dựng và áp dụng thời gian qua trong hệ thống vẫn bộc lộ hạn chế nhất định. Trong đó có các tiêu chí đánh giá xếp hạng doanh nghiệp gồm nhóm chỉ tiêu tài chính và nhóm chỉ tiêu phi tài chính và nhất là các chỉ tiêu phi tài chính cho điểm mang tính chất định tính dẫn đến việc đánh giá khách hàng trong hệ thống xếp hạng còn có nhiều yếu tố mang tính chủ quan của cán bộ QLKH khi đánh giá về doanh nghiệp. Tương tự việc định hạng tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp chỉ áp dụng với các đối tượng khách hàng đủ điều kiện định hạng như: phải có báo cáo tài chính 2 năm liên tục.

Thứ ba, tình trạng thiếu thông tin, hoặc thông tin không chính xác vẫn còn tồn tại.

Trong một xã hội thông tin như hiện nay, vấn đề thông tin trở thành một trong những yếu tố chính trong cạnh tranh. Những ai nắm được càng nhiều thông tin chính xác, kịp thời thì càng có nhiều cơ hội thành công. Ngân hàng thương mại hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ - một lĩnh vực dịch vụ thông tin là yếu tố cạnh tranh chủ yếu, nó quyết định sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Muốn thực hiện tốt công việc kinh doanh, ngân hàng phải tìm kiếm thông tin về khách hàng từ mọi nguồn có thể. Điều đó đòi hỏi thông tin thu thập được phải chính xác

và kịp thời thì mới có thể tránh được những sai lầm hoặc rủi ro xảy ra. Hiện nay, đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và Chi nhánh nói riêng thì việc thu thập thông tin tín dụng vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu chính xác, không kịp thời…

dẫn đến khó khăn trong việc ra quyết định cho vay.

Tuy nhiên, hiện nay ngân hàng chưa có được một cơ chế, một cách thức tối ưu để tìm kiếm thông tin. Những thông tin chủ yếu là do khách hàng cung cấp, và ngân hàng vẫn chưa có cách thức kiểm tra có độ tin cậy cao để xác định liệu những thông tin đó là đúng hay sai. Do vấn đề thiếu thông tin nên việc thẩm định khách hàng doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, thường không đảm bảo tính đúng đắn và chính xác.

Thứ tư, công tác kiểm tra, kiểm soát còn chưa tốt. Công tác kiểm tra, kiểm soát là rất quan trọng, nó đảm bảo cho món vay được sử dụng có hiệu quả tốt. Khi thực hiện tốt công tác này, sẽ phát hiện được nhanh chóng và có biện pháp xử lý sớm những sai phạm, thiếu sót của cán bộ QLKH và khách hàng.

Việc kiểm tra, kiểm soát trong hệ thống BIDV được tổ chức thành một bộ phận riêng biệt (Ban Kiểm tra Kiểm soát nội bộ theo khu vực) trực thuộc Hội sở chính, bên cạnh đó tại Chi nhánh, Phòng Quản lý rủi ro có chức năng kiểm tra, giám sát. Việc kiểm tra, kiểm soát các khoản vay đối với khách hàng được thực hiện chưa thường xuyên và chưa triệt để. Việc kiểm tra kiểm soát mới chỉ dừng lại ở việc phát hiện các sai phạm, các dấu hiệu rủi ro trong khi công tác khắc phục và xử lý sau kiểm tra (hết sức quan trọng nhất) lại chưa được chú trọng triệt để cán bộ QLKH khắc phục hoặc xử lý mang tính chất đối phó. Đây cũng là hạn chế chung trong công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ của BIDV nói chung, Chi nhánh Phú Thọ nói riêng.

Thứ năm, chất lượng đội ngũ cán bộ còn chưa đáp ứng yêu cầu: Những năm qua, BIDV Phú Thọ đã quan tâm đến đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ nhất là cán bộ làm công tác QLKH nâng cao trình độ thẩm định, ngoại ngữ, ứng dụng tin học đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Tuy vậy, dù việc tuân thủ quy trình cho vay được quan tâm, song đôi lúc vẫn bị bỏ qua không thực hiện hết quy trình do áp lực về thời gian thẩm định đến từ cả hai phía, lãnh đạo ngân hàng và khách hàng vay vốn đã làm cho cán bộ QLKH và cán bộ quản lý rủi ro

khi thẩm định gặp phải những khó khăn trong quá trình tác nghiệp. Thời gian càng ngắn thì cán bộ nghiệp vụ không thể kiểm tra được đầy đủ thông tin, từ đó không đánh giá được chính xác năng lực của khách hàng vay vốn, dẫn đến những rủi ro cho hoạt động cho vay.

Việc phát triển mạng lưới, sản phẩm dịch vụ và quy mô của Chi nhánh trong những năm gần đây đã góp phần mang lại hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, tiếp cận gần hơn với khách hàng nên nhu cầu tăng số cán bộ QLKH của Chi nhánh trong các năm gần đây tăng lên khá nhanh. Tuy vậy, đội ngũ cán bộ QLKH nói riêng có tuổi đời và tuổi nghề rất trẻ, kinh nghiệm làm việc chưa nhiều, trong khi yêu cầu phân tích và thẩm định khách hàng đòi hỏi cán bộ QLKH phải có kiến thức khá sâu, rộng, am hiểu nhiều ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Đây cũng có thể coi là một trong những yếu tố quan trọng tiềm ẩn những rủi ro tín dụng rất cao cho ngân hàng.

Thêm nữa, đội ngũ cán bộ trước đây không được đào tạo bài bản mặc dù bước đầu đã đáp ứng yêu cầu công việc, song còn thiếu kinh nghiệm, nghiệp vụ chưa chuyên sâu, kỹ năng tác nghiệp còn nhiều hạn chế, do vậy cần phải tiếp tục nâng cao năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ mới có thể đáp ứng kịp với yêu cầu của công cuộc hiện đại hóa ngân hàng.

Những năm qua, BIDV Phú Thọ đã không ngừng chú ý tới hoàn thiện chính sách, quy trình tín dụng, nâng cao năng lực phẩm chất đội ngũ, tăng cường cơ sở vật chất trang thiết bị và hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý nhằm cải thiện chất lượng tín dụng để góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng. Điều này đã được minh chứng thông qua điều tra phỏng vấn chuyên viên QLKH, GDV của Chi nhánh, kết quả được tổng hợp tại Bảng 3.22 Phần lớn các chuyên viên QLKH, QLRR, QTTD đều cho rằng cả 6 nhân tố đều rất quan trọng ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả tín dụng, trong đó đặc biệt là quy trình tín dụng và phẩm chất, trình độ cán bộ (100% ý kiến cho là rất quan trọng). Đây là điểm cần tham khảo trong xây dựng giải pháp trong thời gian tới).

Bảng 3.24. Ý kiến đánh giá các chuyên viên QLKH, QLRR, QTTD

STT Tiêu chí

Ý kiến đánh giá (%) Rất quan

trọng

Trung bình

Không quan trọng

1 Chính sách tín dụng 80 20 0

2 Quy trình tín dụng 100 0 0

3 Tổ chức của ngân hàng 75 25 0

4 Phẩm chất, trình độ cán bộ 100 0 0

5 Kiểm soát nội bộ 95 05 0

6 Khả năng cung ứng các sản phẩm tín dụng 75 20 5

Nguồn: Tổng hợp phân tích từ kết quả điều tra của tác giả năm 2016

Một phần của tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh phú thọ (Trang 95 - 99)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(139 trang)