V. MỘT SỐ NGUY CƠ NHIỄM ĐỘC THỦY NGÂN HAY GẶP VÀ CÁCH PHÒNG TRÁNH
1. Một số nguy cơ nhiễm độc Thủy ngân hay gặp
Thủy ngân hiếm khi tồn tại trong nước. Tuy nhiên các muối thủy ngân được dùng trong công nghệ khai khoáng có khả năng làm ô nhiễm nguồn nước.
Quá trình khai thác vàng thủ công với các phương tiện đơn giản nhất như: quặng vàng hỗn hống với thủy ngân sau đó hỗn hợp này sẽ được nung chảy, thủy ngân bốc
hơi, chất còn lại là vàng. Người khai thác hít khí độc đầu tiên, chất thải thủy ngân gây ô nhiễm môi trường, tích tụ trong cây cối, động vật và từ đó lan sang chuỗi thực phẩm.
Tiêu chuẩn nước uống và nước sạch đều quy định hàm lượng thủy ngân nhỏ hơn 0,001 mg/l.
1.2. Nguy cơ nhiễm Thủy ngân từ đèn compact
Được biết, hàm lượng thủy ngân trong một bóng đèn compact trung bình chứa khoảng 5 mg và có kích cỡ bằng hòn bi trong chiếc bút bi. Các nhà sản xuất thừa nhận lượng thủy ngân họ dùng trong hầu hết các bóng compact là 5-6mg cho mỗi bóng.
Với quyết định của Thủ tướng phê duyệt chương trình tiết kiệm điện giai đoạn 2006-2010, đèn huỳnh quang compact (đèn compact) chính thức được phép thay cho đèn dây tóc nóng sáng tại các vị trí thích hợp. Tuy nhiên, ít ai biết rằng thủy ngân chứa trong loại bóng đèn này rất độc hại với cơ thể.
• Kẻ thù giấu mặt:
Các nhà khoa học cho rằng, kẻ thù giấu mặt nằm ở các bãi rác chứa các đèn compact thải loại. Một lượng nhất định thủy ngân tỏa ra từ các bãi chôn lấp rác ở dưới dạng hơi methyl-mercury (methyl - thủy ngân), thứ có thể đi vào chuỗi thức ăn dễ dàng hơn thủy ngân nguyên tố dạng vô cơ vốn được phát thải trực tiếp từ các bóng đèn vỡ hoặc các nhà máy nhiệt điện chạy than.
1.3. Mỹ phẩm
Thời trung cổ, nhiều phụ nữ đã chết một cách kỳ lạ mà không ai hiểu tại sao.
Ngày nay, khoa học, sau khi đã phân tích kỹ và chính xác - đã kết luận nạn nhân bị tử vong do đã sử dụng các mỹ phẩm trong đó có chứa các chất độc: TN, chì, asen... Việc phân tích các mẫu xương còn lại của một số nữ hoàng, công chúa, công tước được lưu lại tại các hầm mộ từ thế kỷ 15 ở Nga cho thấy mức độ tập trung TN và chì cao gấp hàng trăm lần so với mức bình thường. Một trong những nghi án lớn nhất của lịch sử Nga là cái chết của Sa hậu Anatassia Romanova (vợ Ivan bạo chúa) qua đời khi mới ở tuổi 25, nổi tiếng lạm dụng mỹ phẩm. Phân chất trong bím tóc màu nâu của bà, thấy muối thuỷ ngân có tỷ lệ cao (4,8mg/g). Bà chết vào năm 1560, khi còn rất trẻ và gây tai họa cho nhiều người vì Ivan bạo chúa cho rằng có kẻ đã ám sát vợ mình. Những cuộc khai quật hầm mộ ở Ai Cập, thu được những túi nhỏ mỹ phẩm trong mộ phần của nhiều phụ nữ, phân tích thấy có chứa nhiều TN, chì...
1.4. Trong các thuốc tráng dương, tăng cường sinh lực
Các vua chúa và các nhà quyền quý ưa chuộng các loại tân dược được chế tạo từ khoáng vật, thực vật... nhằm kéo dài tuổi thọ, tăng cường khoái cảm, tráng kiện, hoạt động tình dục không biết mỏi mệt. Cái chết của Hán Thành tổ Lưu Ngao (thế kỷ I trước CN) được coi là ông vua đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa băng hà vì lạm dụng đan dược, được chính sử ghi chép lại. Nguyên liệu luyện đan thường có các khoáng thạch: hùng hoàng, tiêu thạch, vân mẫu, chu sa, thần sa... Trong các thuốc này có chứa hàm lượng cao: TN, chì, asen..., như chu sa chứa selenua thủy ngân.
1.5. Trong các loại thực phẩm
1.5.1. Trong động vật (nhất là cá biển)
- Thủy ngân là chất tồn tại trong môi trường tự nhiên, được tìm thấy trong không khí và trong nguồn nước bị ô nhiễm. Cá sẽ bị nhiễm độc thủy ngân nếu nó được nuôi trong nguồn nước có chứa thủy ngân. Lượng thủy ngân khác nhau giữa loài cá này với loài khác khác.
- Lượng thủy ngân có trong cá ngừ cũng khác nhau. Cá ngừ tươi thông thường sẽ chứa lượng thủy ngân cao hơn cá ngừ đóng hộp.
- Lượng thủy ngân từ cá, thông qua chế độ ăn có thể ngấm vào mạch máu của mẹ và được chuyển vào bào thai một cách tự nhiên. Thậm chí, thủy ngân còn tồn tại trong máu mẹ và đi tới bào thai ngay cả khi mẹ ăn cá nhiều thủy ngân trước khi mang bầu.
Đó là lý do vì sao phụ nữ nên tránh ăn nhiều cá chứa thủy ngân khi có ý định mang thai.
- Theo điều tra của Viện Vệ sinh Y tế Công cộng TP HCM, tất cả các mẫu cá đồng tươi được kiểm nghiệm đều nhiễm thủy ngân; trong đó 28% có mức thủy ngân vượt quá giới hạn an toàn (50 ppb). Chất độc này cũng được tìm thấy trong 80% số mẫu cá biển đóng hộp (tỷ lệ vượt quá giới hạn an toàn là 0,5%). Cuộc điều tra nói trên được tiến hành trên 53 mẫu cá; trong đó có 28 mẫu cá tươi, được mua ở các chợ Nancy, Tân Bình. Số còn lại là cá biển đóng hộp, bao gồm cá hộp hiệu Ayam Brand (Malaysia) hoặc Sumaco, cá trích sốt cà của các công ty: Three Lady Cooks (Thái Lan), Công ty Thực phẩm Tuyền Ký và Công ty Cổ phần Thủy đặc sản (Seaprodex).
- Thủy ngân từ các nguồn nước nhiễm bẩn xâm nhập trực tiếp vào cơ thể cá hoặc qua các loài rong tảo, nhuyễn thể mà cá rất thích ăn. Kim loại này không dễ mất đi trong quá trình chế biến. Nếu ta hầm hoặc luộc cá, một phần rất nhỏ thủy ngân sẽ tan vào nước. Còn nếu cá được chế biến bằng cách kho, nấu canh, làm lẩu, phơi khô, làm ruốc..., thủy ngân hầu như không hề mất đi.
- Khi xâm nhập cơ thể người, 20% lượng thủy ngân sẽ được thải ra qua đường phân, nước tiểu, mồ hôi, nước bọt và cả sữa. Số còn lại tích lũy ở gan, ruột, thận, tổ chức thần kinh và một số bộ phận khác. Nếu cùng lúc ăn phải một lượng lớn thủy ngân (150-200 mg/lần), bệnh nhân sẽ bị ngộ độc cấp tính, tỷ lệ tử vong lên đến 60%. Nguy cơ tử vong nhanh chóng là 100% nếu lượng thủy ngân ăn phải là 1 g/lần.
1.5.2. Rau quả
- Thủy ngân không có chức năng gì cần thiết trong quá trình chuyển hóa cơ thể con người và thường có rất ít trong thực phẩm rau quả.
- Nếu thực phẩm có thủy ngân rất có tác hại cho sức khỏe con người.
- Biểu hiện của ngộ độc thủy ngân: bệnh nhân thường có biểu hiện có vị kim loại trong cổ họng, đau bụng, nôn, xuất hiện những chấm đen trên lợi, bệnh nhân bị kích động, tăng huyết áp, sau 2-3 ngày thường chết vì suy thận.
1.6. Trong một số hóa chất bảo quản
Ở Pakistan, năm 1971 có hơn 6.000 người chết vì thóc bảo quản bằng chất có chứa oxyd TN. Đáng tiếc hơn là sau sự kiện trên không được rút kinh nghiệm, nên năm 1972 lại gây cho 300 người dân Irac chết vì lý do tương tự.
1.7. Trong nha khoa và một số dụng cụ y khoa (nhiệt kế, dụng cụ).
Việc dùng Amalgam để trám răng đã có từ 1833 do hai anh em người Pháp tên là Crawcowz tìm ra: hợp chất độn amalgam bằng bạc có chứa tới 50% TN. Qua khảo sát thấy trong máu một số nha sĩ có tỷ lệ TN cao hơn mức bình thường, một số ít có biểu hiện rối loạn thần kinh trung ương và ngoại biên. Còn với người bệnh được trám răng, có ý kiến cho rằng: các miếng trám amalgam đã được nhốt kín trong chất này nên an toàn nhưng nếu không làm đúng quy trình kỹ thuật thì TN sẽ rò rỉ, ngấm trực tiếp vào máu và gây hại. Có ý kiến là các nha sĩ nên lưu ý bệnh nhân sau trám amalgam nên nhai kẹo cao su để có thể lấy đi phần nào TN phóng thích từ răng trám. Một nghiên cứu ở Đức năm 1996 thấy nước bọt của 90% bệnh nhân trám răng bằng loại amalgam trên có tỷ lệ TN cao gấp 5 lần tiêu chuẩn cho phép TN có trong nước uống của châu Âu. ở Pháp đã có một số nha sĩ bị bệnh nhân kiện vì họ có triệu chứng nhiễm độc TN.
ở một số nước Đức, Canada, Úc, Thụy Điển... đã cấm dùng loại amalgam trên và thay bằng các loại nhựa tổng hợp. Sự thay thế này còn gây nhiều tranh cãi vì dùng loại nhựa này đắt gấp 5 lần và phải thay trong vòng 2-3 năm nhất là tính vô hại của chúng chưa được chứng minh.
TN có trong một số dụng cụ y khoa: Huyết áp kế, nhiệt kế. Riêng nhiệt kế do thân làm bằng thủy tinh nên dễ vỡ, làm TN có trong đó thoát ra ngoài thành những hạt tròn nhỏ lăn tròn trên mặt đất. Nếu không sớm thu hồi, xử lý thì chúng sẽ bốc hơi vào không khí, xâm nhập vào cơ thể người bằng con đường hô hấp, thấm qua da, gây độc.