Chương 2: Thực trạng công tác quản lý dự trữ ngoại hối của Việt Nam thờigian vừa qua
2.3. Đánh giá công tác quản lý dự trữ ngoại hối của Việt Nam thời gian qua
2.3.2. Những mặt hạn chế
Trong một thời gian dài giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ đã có một khoảng chênh lệch quá lớn, đã làm nảy sinh sự chuyển dịch vốn của khách hàng từ nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại. Ngân hàng bỏ ra nhiều công sức mà không được thu được hiệu quả. Việc tập trung ngoại tệ về Nhà nước chưa kịp thời với các chính sách lãi suất ngoại tệ. Vô tình tạo cơ hội và kẽ hở cho những người có nhiều tiền gửi và những doanh nghiệp khôn ngoan kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất nội tệ và ngoại tệ.
Về điều hành chính sách tỷ giá
Biên độ giao dịch tỷ giá quá hẹp trong một thời gian dài đã hạn chế doanh số mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Công cụ tỷ giá và công cụ lãi suất ngoại tệ có khi diễn biến ngược chiều: lãi suất ngoại tệ diễn ra theo xu hướng giảm trong khi tỷ giá giữa USD/VND vẫn tăng (tuy ở mức độ hẹp), đã gây ra tâm lý người dân găm giữ ngoại tệ. Từ đó khiến cho lượng ngoại tệ trôi nổi trong dân còn nhiều, dễ gây tình trạng đô la hóa, đặc biệt trong hoàn cảnh dự trữ ngoại hối Việt Nam đang sụt giảm như hiện nay, đó là một bất cập cần được giải quyết.
Về dịch vụ kiều hối
Việc đưa ra các chính sách khuyến khích kiều bào gửi tiền về nước còn chưa được quan tâm cụ thể. Bên cạnh đó lượng kiều hối cũng là một trong những nhân tố chủ yếu làm nghiêm trọng thêm tình trạng đô la hoá nền kinh tế.
Nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu kiểm soát lượng ngoại tệ rất lớn đang trôi nổi ngoài thị trường.
Về công tác và bộ máy quản lý
Chiến lược quản lý dự trữ vẫn thụ động, hoạt động đầu tư dự trữ đơn điệu, chưa tương xứng với các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh hội nhập. Định hướng chiến lược quản lý chưa đặt ra mức dự trữ, hay căn cứ để xác định dự trữ chính thức của nhà nước ở tầm vĩ mô phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong từng thời kỳ như tăng trưởng kinh tế
Dự trữ ngoại hối tăng chủ yếu do vốn đầu tư nước ngoài (FDI), nguồn vốn ODA và kiều hối thu hút tăng. Việc quản lý các luồng ngoại tệ ra, vào Việt Nam còn hạn chế do sự phối hợp chưa hiệu quả, chưa nhịp nhàng trong điều hành xuất, nhập khẩu, ngân sách…Hình thức đầu tư còn đơn giản chủ yếu dưới hình thức tiền gửi tại các ngân hàng, các công cụ tài chính như trái phiếu chính phủ, chưa áp dụng các hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận cao như đầu tư vào cổ phiếu hay uỷ thác đầu tư vào các quỹ.
Hơn nữa, việc quản lý dự trữ trực tiếp được giao cho hai cơ quan là ngân hàng Nhà nước và Bộ tài chính không mang tính nhất quán trong chính sách quản lý dự trữ ngoại hối.
Về nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng
Trình độ và chất lượng đội ngũ cán bộ kinh doanh ngoại hối nhất là ở cấp cơ sở đang còn hạn chế về quản lý điều hành, về tác nghiệp và về ngoại ngữ trước yêu cầu ngoại nhập. Thiếu cán bộ có trình độ và kinh nghiệm thực hiện quản lý dự trữ ngoại hối và chuyên gia phân tích, dự báo giỏi. Nhân lực có trình độ chuyên môn làm việc tại ngân hàng Nhà nước nói chung và tại bộ phận quản lý nói riêng còn thiếu. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn rất hạn chế. Mặc dù nhận được sự tài trợ một số dự án của các nhà tài trợ quốc tế như Ngân hàng Phát triển Châu á…, nhưng các dự án này mới chỉ tập trung vào phần công nghệ thông tin phục vụ mảng kinh doanh, nghiệp vụ… Công nghệ thông tin phục vụ thu thập thông tin số liệu, phân tích dự báo còn hạn chế.
Kết luận chương 2
Việt Nam nằm trong số những quốc gia đang phát triển, là một thị trường mới của nền kinh tế thế giới và cũng là một trong những nước có dự trữ ngoại hối thấp, cần được tăng cường đáp ứng với nhu cầu hội nhập. Trong chương 2, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu về thực trạng chính sách dự trữ ngoại hối Việt Nam qua 3 giai đoạn: từ sau khủng hoảng tài chính thế giới năm 1997 đến năm 2004, từ khi nhà nước ban hành pháp lệnh ngoại hối năm 2005 đến trước khủng hoảng kinh tế năm 2008, và từ năm 2009 đến năm 2011. Song song với việc nghiên cứu chính sách, nhóm cũng nêu lên tình hình diễn biến của dự trữ ngoại hối Việt Nam tương ứng với từng thời kỳ. Thông qua đó đánh giá, những mặt tích cực và hạn chế của công tác quản lý dự trữ ngoại hối Việt Nam trong thời gian kể trên. Việc đánh giá chính sách dự trữ ngoại hối qua từng giai đoạn, đem lại một cái nhìn tổng quan nhất bức tranh ngoại hối ở Việt Nam thời gian qua,
làm cơ sở tiền đề cho việc đưa ra các giải pháp, chính sách hợp lý nhằm hoàn thiện cho chính sách quản lý dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong thời gian tới.