CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐÈ VÈ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG TRONG LUẬT HÌNH sự VIẸT NAM HIỆN HÀNH 1.1. Khái quát chung về phòng vệ chính đáng
3.2. Những bất cập khi áp dụng chế định phòng vệ chính đáng trong Luật hình 2. Quy định chế định phòng vệ chinh đáng nằm trong phần “tội phạm” chưa đảm bảo đúng bản chất của một hành vi chính đáng được Nhà nước cho phép
3.2.6. Chưa thể hiện được hết quyền phòng vệ của con người
Phòng vệ chính đáng là quyền của con người chứ không phải nghĩa vụ, nên không nên yêu cầu phương pháp và phương tiện của người phòng vệ phải giống như phương pháp, phương tiện của người xâm hại.
Phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại.
Hành vi phòng vệ phải càn thiết so với hành vi xâm hại, tức là thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đến các lợi ích của xã hội.
Cần thiết không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ.
Để xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không, có rõ ràng là quá đáng hay không thì phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như: khách thể cần bảo vệ (bảo vệ địa điểm thuộc bí mật quốc gia, bảo vệ tính mạng), mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra, vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai bên đã sử dụng, nhân thân của người xâm hại (nam, nữ, tuổi, người xâm hại là côn đồ, lưu manh...); cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ, hoàn cảnh và nơi xảy ra sự việc (nơi vắng người, nơi đông người, đêm khuya) v.v... Đồng thời cũng cần phải chú ý đến yếu tố tâm lý của người phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích họp, nhất là trong SVTH: Ngô Mỹ Yên
Luận vãn tốt nghiệp Phòng vệ chính đáng trong Luật hình sự Việt Nam hiện hànhphòng vệ chính đáng. Ngược lại, nêu hành vi chông trả là cân thiêt thì đó là phòng vệ chính đáng”.
Pháp luật nước ta quy định mọi công dân có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, cho nên hành vi phòng vệ lại hành vi của người khác xâm phạm tính mạng, sức khỏe của chính mình là điều hiển nhiên, cho nên hành vi phòng vệ là một quyền của con người chứ không phải là một nghĩa vụ. Một người đang thấy một người khác đang bị đe dọa tính mạng, người này có thể trong khả năng của mình có thể cứu hoặc không thể cứu (trừ trường hợp là một bác sĩ không cứu giúp người đang bị tai nạn). Cho nên việc xem xét phương pháp và phưomg tiện của người phòng vệ thì tùy trường họp cụ thể mà xem xét, đôi khi phương pháp và phương tiện của người phòng vệ khác so với người xâm hại ta cũng không thể coi là rõ ràng quá mức như trong khoản 2 Điều 15 BLHS hiện hành đã nêu đã nêu “hành vi chổng trả rõ ràng quá mức cần thiết”.
3.2.7. Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ vói yếu tố giảm nhẹ “vượt quá giói hạn
phòng vệ chính đáng” là không cần thiết.
Theo khoản 2 Điều 15 BLHS hiện hành: “vượt quá giới hạn phòng vệ chinh đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tinh chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chỉnh đảng phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Việc quy định tình tiết giảm nhẹ do hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định ở điểm c khoản 1 Điều 46 BLHS hiện hành với tư cách là tình tiết giảm nhẹ hàu như là không cần thiết, ừên thực tế việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này để định tội danh là không cần đến vì người có hành vi chống trả vượt mức cần thiết trong phòng vệ chính đáng chỉ được phép gây thiệt hại cho tính mạng sức khỏe của người khác đã được BLHS hiện hành quy định với tư cách là tình tiết định tội tại Điều 96 tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và Điều 106 tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt quá phòng vệ chính đáng.
Ngoài hai trường họp này không còn trường họp nào được xem là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
3.2.8. Trường hạp phòng vệ chính đáng có thể nhầm vói phạm tội do tinh
thần bị
AI SVTH: Ngô Mỹ Yên
hành Ví dụ: Nam đang câm dao kê vào cô Hoàng buộc Hoàng đưa tài sản. Nêu hành vi chưa bắt đầu, thì mọi hành vi chống trả không được coi là phòng vệ. Ví dụ: Trần Văn A là cha của Lê Thị B, A thường thấy con gái mình đi qua lại với anh Nguyễn Văn c, A không cho qua lại nữa, một hôm A thấy c đang đi trên đường cùng đám bạn, A bảo: “tao không muốn mày dụ dỗ con gái tao nữa, coi chừng tao đánh mày gãy chân đỏ”, mới nghe A nói vậy, c tức vì làm mất mặt trước bạn bè, c liền nện vào mặt A vài cái.
Trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc thì mọi hành vi chống trả cũng không được coi là phòng vệ. Ví dụ: Tâm đánh Dũng, Dũng tức quá chạy về nhà lấy dao quay hở lại nhà Tâm chém Tâm.
Nhưng nếu trong trường họp hành vi xâm phạm đã kết thúc, nhưng lại có tiếp hành vi khác của chính người đó xâm phạm đến lợi ích chính đáng cần bảo vệ thì cũng không coi đó là hành vi xâm phạm đã kết thúc và người chống trả vẫn được xem là phòng vệ.
Ví dụ: Tâm đánh Dũng, Dũng tức quá chạy về nhà lấy dao, quay trở lại nhà Tâm, chém Tâm, nhưng Tâm đỡ được, Dũng thấy vậy, vừa đánh không được Tâm, vừa bị Tâm xô té, Dũng tức quá, Dũng liền xông tới đánh mẹ của Tâm đang nằm bệnh trên giường, nên Tâm đã dùng khúc cây ở gần đó vụt manh vào đầu Dũng làm Dũng ngất xỉu, Tâm kêu xe đưa Dũng vào bệnh viện vài hôm thì Dũng chết. Trong trường họp này, dù hành vi xâm phạm của Dũng đối với Tâm đã kết thúc khi Tâm xô Dũng té, nhưng lại tiếp theo đó là hành vi xâm phạm của Dũng đối với mẹ Tâm, vì Dũng đã xâm hại đến mẹ Tâm đang nằm bệnh trên giường, để bảo vệ mẹ mình nên Tâm đã chống trả gây thiệt hại cho Tâm, cho nên hành vi của Tâm vẫn được xem là phòng vệ chính đáng. Khi xét trường họp này, thì hành vi phòng vệ này rất có thể dễ nhầm lẫn với trường họp phạm tội do tinh thần bị kích động manh do hành vi trái pháp luật nghiệm trọng của nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều 95 và khoản 1 Điều 105 BLHS . Phạm tội do tinh thần bị kích là do hành vi hái pháp luật của nạn nhân đối với người thân thích của người chống trả, còn vệ phòng vệ chính đáng, người phòng vệ chống trả lại sự xâm hại của nạn nhân đối với lợi ích cần bảo vệ, lợi ích cần bảo vệ có thể là của bản thân, hay lợi ích của người khác, người khác ở đây có thể là của người thân thích của người phòng vệ hay lợi ích của người không quen biết. Do đó, khi xét hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức SVTH: Ngô Mỹ Yên
11 Thái Sơn, Dùng điện chống trộm gây chết nguôi, xem trên http://dantri.com.vn/c20/sl70-185320/dung-dien- chong-trom-gav-chet-nguai-linh-an-5-nam-tu.htm [ Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2011]
Luận văn tốt nghiệp Phòng vệ chính đáng trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành3.2.9. Khái niệm phòng yệ từ xa (hay là phòng yệ quá sớm) chưa được pháp
luật
Việt Nam thừa nhận.
Pháp luật Nhà nước ta không thừa nhận hành vi phòng vệ từ xa, có nghỉa là chưa có hành vi tấn công mà đã có hành vi chuẩn bị phòng vệ như: dùng dòng điện để bẫy chuột, dùng dòng điện để bắt ừộm. Neu phòng vệ trước gây hậu quả chết người hay gây thương tích cho người khác thì người phòng vệ trước bị truy cứu trách nhiệm hình sự như phạm tội thông thường (giết người hay cố ý gây thương tích).
Ví dụ:
Sáng ngày 28/6/2007, TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tuyên phạt ông Lê Văn Đến, sinh năm 1931 (trú tại xã Hắc Dịch, huyện Tân Thành) 5 năm tù về tội “giết người”.
Vào đầu năm 2004, thấy ao cá nhà mình nhiều lần bị mất trộm nên ông Đến nghĩ ra biện pháp “phòng chống” bằng cách mua dây kim loại về giăng xung quanh ao làm bẫy điện trừ trộm.
Sau hơn 2 năm trời “sử dụng” an toàn, sáng ngày 14/10/2006, ông Đen ngắt công tắc lưới điện cho cá ăn thì phát hiện anh Trần Đình Tất, sinh năm 1983 và là hàng xóm của mình đã chết bên bờ ao, trên tay còn cầm 1 tấm lưới bắt cá. Kết luận của cơ quan chức năng, anh Tất chết vì điện giật11
Từ ví dụ trên, tuy trong pháp luật nước ta không quy định trường họp phòng vệ trước, và không quy định trường họp phòng vệ từ trước được giảm nhẹ trách nhiệm.
Nhưng thực tiễn xét xử cho thấy, nếu hành vi phòng vệ trước lại gây thiệt hại cho đúng kẻ phạm pháp thì người phạm tội đã được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đáng kể. Theo ví dụ trên, mặc dù ông Lê Văn Đến bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS hiện hành, nhưng Tòa án chỉ phạt ông Đến 5 năm tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Ở đây có vấn đề mâu thuẫn giữa ý thức pháp luật với hành vi nguy hiểm cho xã hội.
hành ì
có hành vỉ xâm phạm các lợi ích nói trên”. Hành vi chông trả của người phòng vệ phải là cần thiết, mức độ như thế nào gọi là cần thiết thì trong Luật và các văn bản hướng dẫn chưa quy định rõ. “Cần thiết” không có nghĩa là ngang bằng theo cách xác định toán học, bên xâm phạm gây thiệt hại như thế nào thì bên phòng vệ cũng chỉ được gây thiệt hại như thế. Ví dụ: A đấm vào mặt B hai cái thì B cũng chỉ được đấm vào mặt A hai cái, hoặc A gây thương tích cho B 30% thì nhất định B phải gây thương tích lại cho A đúng 30%, hoặc là A xâm phạm B ở vị trí nào thì B chống trả gây thiệt hại cho A đứng vị trí ấy. “Cần thiết” cũng khác với tương xứng, vì tương xứng là một đại lượng cân đối giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác. Ví dụ: hành vi chống trả không tương xứng với hành vi xâm phạm, lực lượng phòng thủ không tương xứng với lực lượng tấn công của địch... Khi nói đến tương xứng là nói đến sự cân đối.
Tuy theo tinh thần của Nghị quyết 02 có hướng dẫn về phòng vệ chính đáng cũng nêu tương xứng giữa hành vi xâm hại với hành vi phòng vệ. Trong khi đó, có nhiều trường họp rõ ràng là hành vi phòng vệ không tương xứng nhưng vẫn được coi là phòng vệ chính đáng. Do đó khi nói đến hành vi chống trả một cách cần thiết ngưới đang có hành vi xâm phạm, nhưng chưa nêu được căn cứ để xác định thế nào là cần thiết. Theo người viết nên có thêm văn hướng dẫn dưới dạng Nghị định hay Thông tư nêu rõ căn cứ xác định thế nào là cần thiết. Và theo ý kiến chủ quan của người viết, sự chống trả được coi là cần thiết khi có các căn cứ sau:
- Lợi ích bị xâm phạm càng quan trọng bao nhiêu thì hành vi chống hả càng manh mẻ bấy nhiêu, và phải luôn đặt trong hoàn cảnh cụ thể.
- Tính chất, mức độ của hành vi càng nguy hiểm và nghiêm trọng bao nhiêu thì hành vi chống trả thể hiện quyết liệt và rõ ràng hơn.
- Mối tương quan giữa lực lượng giữa bên xâm hại và người phòng vệ
- Thời gian cũng là yếu tố quan trọng, vì nếu hành vi chống trả giữa ban ngày và ban đêm có thể khác nhau.
- Không gian xảy ra sự việc.
- Thái độ, tâm lý của người phòng vệ khi xảy ra sự việc.
SVTH: Ngô Mỹ Yên
12 Đinh Văn Quế, Một số vấn đề về phòng vệ chính đáng, vượt quá giói hạn phòng vệ chính đang, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ 1 tháng 9 năm 2009 số 17, trang 21-22
Luận văn tốt nghiệp Phòng vệ chính đáng trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành Khoảng 16 giờ cùng ngày, trong lúc đang lập biên bản tạm giữ, thì Trân Văn T ở xã s, huyện B, đi trên chiếc thuyền máy do Nguyễn Văn T ở xã Q, huyện B điều khiển chạy đến Trạm kiểm lâm T. Khi đến noi, Trần Văn T một tay cầm dao, một tay cầm que sắt, thấy anh H đang đứng ở sân, T chửi: “Đ mẹ! răng mi bắt gỗ tao”. Vừa chửi, T vừa dùng dao chém vào đàu anh H, anh H đưa tay lên đỡ trúng vào phía ngoài cẳng tay phải, T lại dùng que sắt đánh vào đầu, bả vai trái của anh H. Vứa đánh, T vừa đe dọa các cán bộ, nhân viên kiểm lâm khác và buộc các nhân viên Kiểm lâm họp đồng bảo vệ của trạm bốc gỗ từ trong kho xuống thuyền, nếu không T sẽ chém. Do sợ T chém, nên số nhân viên họp đồng đã cùng Nguyễn Văn T bốc 10 phiến gỗ Huê từ trong kho xuống bến đò cho Trần Văn T.
Lúc này anh Hoàng Minh H đi xuống phòng ngủ băng lại vết thưomg ở tay.
Trần Văn T chạy đến, dí mũi dao vào phía ngực trái của anh H, anh H vùng ra, đi xuống thuyền của Trạm đậu ở dưới sông lấy khẩu sung AK số 0255, giấy phép sử dụng số 00090 cấp ngày 19/4/1999. Súng đã lắp sẵn hộp tiếp đạn, anh H xách súng đi lên trạm, sát phía ngoài sân, kẹp súng vào giữa hai chân, dùng tay phải mở khóa an toàn lên đạn, kẹp súng vào nách phải, giơ súng lên trời bắn ba phát cảnh cáo, nhưng Trần Văn T vẫn dùng que sắt đập phá tài sản trong Trạm. Thấy vậy, anh H cầm súng đi đến cách T khoảng ba mét, yêu cầu T bỏ dao, que sắt xuống, không được đập phá, chấm dứt việc cướp gỗ, nhưng T không những không chấp hành, mà tiếp tục cầm dao đòi giết anh H. Lúc này tay hái của anh H đang bị thương, nên anh H dùng tay phải kẹp súng vào nách hạ nòng súng hướng vào chân T bóp cò, đạn nổ ba phát, một viên đạn trúng vào đầu gối chân phải của T, còn hai viên trúng vào vùng ngang lưng. Sau ba tiếng nổ thấy T bị ngã xuống, anh H gọi người đưa T xuống thuyền. Thấy vậy, Nguyễn Văn T bốc một phiến gỗ Huê lên thuyền của mình chở Trần Văn T về trạm xá xã s, rồi chở phiến gỗ bỏ chạy. Khi đến Trạm kiểm lâm X thì bị bắt giữ.
Trần Văn T được đưa vào cấp cứu tại Bệnh viện đến ngày 18/10/1999, Trần Văn T chết. Anh Hoàng Minh H sau khi bị chém, bị đánh vào đầu, vào cánh tay trái được điều trị tại Bệnh viện tỉnh Q. Ngoài chi phí thuốc men thì kết quả giám định pháp y tỉnh Q kết luận tỷ lệ thương tật của anh Hoàng Minh H là 4% tạm thời.
Sau sự việc xảy ra, qua điều tra xét xử anh Hoàng Minh H bị tuyên phạt về tội
hành Từ vụ án trên cho thây, anh Trân Văn T đã dùng vũ lực uy hiêp nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của anh Hoàng Minh H và các cán bộ kiểm lâm Trạm kiểm lâm T để cướp tài sản, hành vi của anh Trần Văn T là hành vi phạm tội nguy hiểm cần được ngăn chặn kịp thời. Trần Văn T đã gây thương tích cho anh Hoàng Minh H mà còn uy hiếp nghiêm trọng đến tính mạng của anh Hoàng Minh H, anh H đã bắn cảnh cáo và ra lệnh cho anh T chấm dứt hành vi trái pháp luật của mình nhưng anh T vẫn không nghe mà còn dọa và buộc mọi người đưa gỗ trái phép xuống thuyền cho anh ta.
Trước tình hình như vậy buộc anh H phải nổ sung nhằm bảo vệ tính mạng cho mình cũng như anh em trong Trạm. Hành vi cuả anh H như vậy được xem là cần thiết.
3.3.2. Nên quy định chế định phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 15 BLHS
hiện hành thành một phần riêng, tách biệt ra vói phần quy định trong Chương
tội phạm.
Trong quy định của pháp luật cũng đã quy định bằng những cụm từ rõ ràng trong quy định tại Điều 15 BLHS là: “Phòng vệ chính đáng là hành vỉ của người Vỉ bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của to chức, bảo vệ quyền, lợi ích chỉnh đáng của mình hoặc của người khác, mà chong trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chỉnh đáng không phải là tội phạm”. Do đó, phòng vệ chính đáng là một hành vi chính đáng được Nhà nước cho phép và bảo vệ, từ quy định của pháp luật trở nên mẫu thuẫn với hình thức thể hiện dễ gây sự hiểu sai bản chất thật sự của quy định. Vì vậy, nên quy định chế định phòng vệ chính đáng ra một Chương riêng, tách khỏi Chương quy định tội phạm, để người dân cũng như những người thực thi pháp luật hiểu đúng bản chất của phòng vệ chính đáng.
3.3.3. Nên có thêm văn bản quy định rõ hành vi xâm phạm trong trường
hợp như
thế nào thì hành vi chống trả được coi là phòng vệ, trường họp nào thì không được coi là phòng vệ.
52 SVTH: Ngô Mỹ Yên