Một trong những khâu quan trọng nhất trong KTVT là vấn đề thu nhận thông tin (data acquisition). Những thông tin viễn thám này có thể thu nhận được ở các khoảng cách khác nhau từ độ cao tầng vũ trụ đến mặt đất.
Hình 2.13. Các tầng thu nhận thông tin viễn thám
Tính chất của các thông tin này phụ thuộc rất lớn vào khoảng cách tới đối tượng nghiên cứu, vì vậy hầu hết các thiết bị thông tin đều đặt trên các vật mang (vecteur).
Đối với tầng vũ trụ từ khoảng 150 km trở lên tới 36 000 km các vật mang các sensor gồm:
- Tàu vũ trụ có người điều khiển ( Liên Xô ).
- Tàu vũ trụ con thoi ( Mỹ ).
- Vệ tinh tài nguyên Trái đất (Thí dụ: Landsat - Mỹ, Spot - Pháp, MOS-1 Nhật, ấn Độ vv...
- Vệ tinh khí tượng ( Mỹ, Liên Xô, Nhật vv...) Đối với tầng máy bay từ độ cao 1 - 100 km có:
- Máy bay có độ cao lớn.
- Máy bay có độ cao trung bình.
- Máy bay có độ cao thấp.
- Máy bay trực thăng.
- Khinh khí cầu.
Đối với tầng mặt đất từ 1 m đến vài chục mét.
- Cần cẩu.
- Giá đặt máy.
- Con người.
Sau đây giới thiệu một số đặc tính kỹ thuật của một số vật mang chính.
2.6.1. Vệ tinh LANDSAT
Vệ tinh Landsat là tên chung cho hệ thống các vệ tinh chuyên dùng vào mục đích thăm dò tài nguyên Trái đất. Đầu tiên nó mang tên ERTS ( Earth Resource Technology Sectellite ) - kỹ thuật vệ tinh thăm dò Trái đất.
Hệ thống vệ tinh Landsat cho tới nay có thể nói là hệ thống vệ tinh mang tính chất quốc tế vì các lý do:
- Với vệ tinh Landsat trong "bầu trời mở" cho phép thu được hình ảnh trên toàn bộ trái đất.
- Trung tâm tư liệu EROS (EDC) của Mỹ thu được toàn bộ các bức ảnh.
- Mọi người sử dụng ở khắp các nước trên thế giới đều có thể mua các bức ảnh này với giá ưu tiên giống nhau và có thể mua ở các trạm thu khác nhau.
Hệ thống vệ tinh Landsat phóng lên vũ trụ và hoạt động qua các thời kỳ như sau:
Landsat 1: được phóng lên quỹ đạo ngày 23-7-1972 và ngừng hoạt động ngày 6-1- 1978.
Landsat 2 : được phóng lên quỹ đạo ngày 22-1-1975 và ngừng hoạt động 27-7-1983.
Landsat 3 : được phóng lên quỹ đạo ngày 5-3-1978 và ngừng hoạt động ngày 7-9-1983.
Landsat 4 : được phóng lên quỹ đạo ngày 16-7-1982, đang hoạt động.
Landsat 5 : được phóng lên quỹ đạo ngày 1-3-1984, đang hoạt động.
Landsat 6 : được phóng lên quỹ đạo nhưng không thành công do bị nổ sau khi phóng.
Landsat 7 : được phóng lên quỹ đạo ngày 25-4-1999, đang hoạt động.
Quỹ đạo các vệ tinh này nghiêng một góc 98o-99o tạo một góc thế sai cùng một hướng và cùng một tốc độ góc mà chuyển động trung bình của mặt trời quanh trái đất khoảng 1o/ ngày . Như vậy những quỹ đạo này đồng bộ với mặt trời do đó ánh sáng không thay đổi trên vùng quét
cho nên ảnh thu được ở một vùng nhất định bao giờ cũng vào một thời điểm nhất định. Đây chính là điểm rất quan trọng của vệ tinh trong việc điều tra tài nguyên của trái đất. Giờ bay của vệ tinh Landsat thường bay vào khoảng 9 h oo - 9 h 30’ sáng (giờ Hà Nội) và nhờ vậy tránh được những phản chiếu.
Độ cao bay của các vệ tinh Landsat 1,2 và 3 trung bình cách mặt đất khoảng 920 Km, còn vệ tinh 4 và 5 thấp hơn. Khoảng cách giữa các quỹ đạo n đến n + 1 vào khoảng 2760km tiến về phía tây. Từ vòng n đến vòng n + 1 mất 24 giờ cộng thêm vài phút nhưng đến vòng thứ n + 14 không trùng với quỹ đạo của vòng n mà còn cách 159 km về phía tây. Như vậy cứ một ngày vệ tinh Landsat 1,2 và 3 bay được 14 vòng quanh trái đất và số ngày để nó bay vào vòng quỹ đạo cũ là 18 ngày hay (251 vòng). Nếu 2 vệ tinh cùng hoạt động thì cứ 9 ngày tại một điểm có thể nhận 1 lần ảnh hoặc băng từ.
Khoảng cách giữa 2 tâm ảnh là 159 km và mỗi ảnh có kích thước 185 × 185 km2, độ phủ dọc 10% và độ phủ ngang gần 14% cho vùng xích đạo, 34% cho vị độ 40 độ và 57% cho vị độ 60 độ.
Hình 2.14. Sơ đồ vệ tinh Landsat 7 ETM+
Hình 2.15. Quỹ đạo bay và đường quét của Landsat 4, 5, và 7 Trên hệ thống vệ tinh Landsat ( 1,2,3 ) thường đặt 2 loại sensor khác nhau:
a - Hệ thống quét đa phổ MSS (MSS - multispectral scanner ).
Hình 2.16. Hệ thống quét đa phổ MMS b - Hệ thống vô tuyến truyền hình RBV (RBV- return beam vidicon) .
Đối với các vệ tinh Landsat 4,5 thì ngoài hệ thống quét đa phổ còn đặt một sensor mới - hệ thống TM (Thematic mapper).
Hình 2.17. Hệ thống TM (Thematic mapper) Một số thông số kỹ thuật của MSS :
Tiêu cự: 82.3 cm, Cửa mở: 3.6 và trường nhìn FOV : 11.56 độ.
Một cảnh của vệ tinh Landsat chụp vùng có diện tích 185 km × 185 km, thu nhận ở 4 kênh phổ khác nhau.
Bốn Kênh phổ theo 4 băng với các bước sóng như sau:
- Băng MSS - 4 từ 0.5 - 0.6 μm.
- Băng MSS - 5 từ 0.6 - 0.7 μm.
- Băng MSS - 6 từ 0.7 - 0.8 μm.
- Băng MSS - 7 từ 0.8 - 1.1 μm.
Riêng với Landsat 3 còn có thêm băng MSS - 8 với băng phổ từ 10.4 - 12.6 μm ( hồng ngoại xa )
Số băng được quét cùng một lúc : 6 Kích thước pixel theo bề ngang 56 - 58 m Kích thước pixel theo bề dọc 81.5 m
7 bits/pisel cho các kênh 4,5, 6 và 6 bist / pixel cho kênh 7
Độ phân giải mặt đất của các băng từ MSS - 4 đến MSS -7 là 80m, với băng 8 là 240m.
Hệ thống vô tuyến truyền hình RBV ghi được ở 3 băng phổ : - Băng 0.475 - 0.575 μm ứng với màu xanh blue và green.
- Băng 0.580 - 0.680 μm ứng với màu vàng da cam đến bắt đầu đỏ.
- Băng 0.690 - 0.830 μm ứng với đỏ đến hồng ngoại gần.
Độ phân giải mặt đất là 40 m cho cả 3 băng.
Vệ tinh Landsat 4, 5, và 7 có cải biến hơn so với các thế hệ trước.Độ cao trung bình của vệ tinh là 705 km, góc nghiêng 98o. Chu kì quỹ đạo là 99 phút hay 14,5 vòng ngày. Khoảng cách giữa các quỹ đạo là 2752 km. Chu kì lặp lại 1 điểm là 16 ngày. Thời gian vệ tinh bay qua Hà Nội là 9 giờ 45 phút.
Thiết bị thu nhận thông tin bao gồm MSS và TM, diện tích chụp được ở mặt đất là 185×
185 km2.
Thiết bị thu TM gồm 7 băng với các bước sóng như sau:
- Băng 1 : 0.45 - 0.52 μm - Băng 2 : 0.52 - 0.60 μm - Băng 3 : 0.63 - 0.69 μm - Băng 4 : 0.76 - 0.90 μm - Băng 5 : 1.55 - 1.75 μm - Băng 6 : 10.40 - 12.50 μm - Băng 7 : 2.089 - 2.35 μm
Như vậy khác biệt giữa TM và MSS ở 3 băng đó là băng 5,7 - là những băng hồng ngoại và băng 6 - hồng ngoại nhiệt. Độ phân giải các băng 1-5 và 7 là 30 m với băng 6 là 126 m. Kích thước mỗi pixel là 79 × 79m.
Số trạm thu TM của Landsat 4,5 ở châu á, úc có : Băng Cốc - Thái Lan, Tokyo - Nhật Bản, Hyderabad - Ấn Độ và Alice Springs - Úc
Đối với các loại vệ tinh Landsat ta có thể nêu một vài đặc trưng kỹ thuật sau : Các thông số Vệ tinh 1, 2, 3 Vệ tinh 4, 5 & 7 Độ cao trung bình : 920 km 705 km Góc nghiêng : 99o 98o
Chu kì quỹ đạo (vòng/ngày ): 102′ (14 v/ng.) 99′ (14,5 v/ng.) Khoảng cách giữa 2 vòng quỹ đạo : 2760 km 2752 km Chu kì lặp lại : 18 ngày 16 ngày Thời gian hay giờ địa phương : 8h 30 - 9h 30 9h 45
Các thiết bị thu : MSS, RBV và DCS ( 1) MSS, TM, ETM+
Diện tích phủ : (185 × 185) km (185 x 185) km Bảng 2.2. Các đặc trưng kỹ thuật của các loại thiết bị thu của vệ tinh Landsat
Các sensor Băng phổ Bist/pixel Độ phân giải
RBV Băng 1: 0.475 - 0.575μm 6 bist 40 m
Băng 2: 0.580 - 0.680μm 6 bist 40 m Băng 3: 0.690 - 0.830μm 6 bist 40 m Băng đơn sắc: 0.475 - 0.575μm 6 bist 40 m
MSS Băng 4: 0.50 - 0.60μm 7 bist 80 m
Băng 5: 0.60 - 0.70μm 7 bist 80 m
Băng 6: 0.70 - 0.80μm 7 bist 80 m
Băng 7: 0.80 - 1.10μm 6 bist 80 m
Băng 8: 10.4 - 12.6μm 6 bist 240 m
TM Băng 1: 0.45 - 0.52μm 8 bist 30 m
Băng 2: 0.52 - 0.60μm 8 bist 30 m
Băng 3: 0.63 - 0.69μm 8 bist 30 m
Băng 4: 0.76 - 0.90μm 8 bist 30 m
Băng 5: 1.55 - 1.75μm 8 bist 30 m
Băng 6: 10.4 - 12.5μm 8 bist 126m
Băng 7: 2.08 - 2.35μm 8 bist 30 m
ETM+ Băng 1: 0.45 - 0.52μm 8 bist 30 m
Băng 2: 0.52 - 0.60μm 8 bist 30 m
Băng 3: 0.63 - 0.69μm 8 bist 30 m
Băng 4: 0.76 - 0.90μm 8 bist 30 m
Băng 5: 1.55 - 1.75μm 8 bist 30 m
Băng 6: 10.4 - 12.5μm 8 bist 60m
Băng 7: 2.08 - 2.35μm 8 bist 30 m
Băng đơn sắc 8 bist 15 m
(1)Data collection system (DSC) hệ thống thu nhận thông tin sẽ chuyển về các trạm thu ở mặt đất.
2.6.2. Vệ tinh SPOT
Vệ tinh SPOT của Pháp được phóng lên quỹ đạo năm 1986 nhờ tên lửa đẩy Arian, vệ tinh này mang hai đầu chụp dựa trên công nghệ quét chổi đẩy được gọi là HVR (Hight resolusion visible) thu ở hai kiểu ảnh toàn sắc và ảnh đa phổ.
Vệ tinh SPOT bay ở độ cao 822 Km và chu kỳ lặp lại là 26 ngày, mỗi ảnh của SPOT có kích thước 60 x 60 Km. Quỹ đạo của SPOT đồng trục với tương tự như của Landsat. Quỹ đạo cắt ở vị độ 40o bắc vào khoảng 10 giờ đến 10 giờ 30 sáng theo giờ địa phương, nghĩa là chậm hơn Landsat 1 giờ. SPOT sử dụng một hệ thống tạo ảnh nhìn thấy có độ phân giải cao HVR, đây là hệ thống quét dọc. Độ phân giải đối với hệ thống quét đa phổ là 20 mét, còn hệ thống toàn sắc (Panchromatic) là 10 mét.
Tiếp theo là các vệ tinh SPOT-2, 3 và SPOT-4 cũng dựa trên nguyên tắc hoạt động của SPOT-1 có cải tiến hơn, các đầu thu có thể chuyển động được, có thể chụp được ở phương thẳng đứng và xiên chính nhờ khả năng này mà ngoài ưu thế về độ phân giải cao các ảnh SPOT còn có khả năng nhìn lập thể rất có nhiều ưu thế quan trọng trong việc xây dựng bản đồ địa hình.
Hình 2.18. Đầu thu chụp HVR của vệ tinh SPOT.
Hệ thống quét HVR có các kênh phổ với các bước sóng như sau:
- Kênh 1 : 0.50 - 0.59 μm - Kênh 2 : 0.61 - 0.68 μm - Kênh 3 : 0.79 - 0.89 μm - Kênh toàn sắc : 0.51 - 0.73 μm
Tư liệu SPOT hiện nay cũng rất phổ biến ở nước ta. Những vùng trọng điểm như Hà Nội, Hải Phòng, Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên đều có băng từ và ảnh.
Hình 2.19. Quỹ đạo của tinh SPOT ban ngày và ban đêm
2.6.3. Vệ tinh quan sát biển MOS-1
Vệ tinh quan sát biển MOS - 1 (marine observation satellite) là vệ tinh quan sát biển đầu tiên của Nhật Bản. Trên vệ tinh ngoài những máy thu khác nó còn trang bị máy thu MESSR (multispectral electronic self scanning radiometer) thu các thông tin phục vụ nghiên cứu bề mặt trái đất. Vệ tinh bay ở độ cao 909 km, góc nghiêng 99o thời gian bay một vòng quanh trái đất 103 phút. Chu kỳ lặp của vệ tinh là 17 ngày.
Một số đặc trưng kỹ thuật của máy thu MESSR : Kênh 1 : 0.51 - 0.59 μm
Kênh 2 : 0.61 - 0.69 μm Kênh 3 : 0.72 - 0.80 μm Kênh 4 : 0.80 - 1.10 μm Độ phân giải các kênh 50 mét.
Kích thước một ảnh 100 × 100 km.
Bist/ pixel - 6 bist
Máy MESSR cung cấp tư liệu tương tự như MSS của Landsat. Điểm khác cơ bản là tài liệu có độ phân giải cao, tư liệu có giá thành rẻ hơn nhiều và đang thâm nhập vào Việt Nam.
2.6.4. Tàu vũ trụ Liên Xô (cũ)
Tàu vũ trụ Liên Xô hoạt động trên độ cao 200 - 250 km với góc nghiêng là 51o 6 và chu kì khoảng 89 phút. Trên tàu vũ trụ thường đặt một số máy ảnh chụp tự động.
Một trong những nhiệm vụ của trạm ″ Chào mừng 6 ″ của Liên Xô là chụp ảnh bề mặt trái đất với mục đích nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên. Trạm đặt máy ảnh đa phổ vũ trụ MKF - 6M do các chuyên gia Liên Xô và CHDC Đức
trước đây chế tạo. Máy ảnh đa phổ MKF - 6 có 6 ống kính tương ứng với 6 cuộn phim khác nhau. Sau đây là một vài thông số kỹ thuật chính :
Tiêu cự ống kính : 125 mm.
Kích thước ảnh : 56 mm × 80 mm.
Độ phân giải : 160 đường / mm.
6 kính lọc với các bước sóng khác nhau 0.48 μm, 0.54 μm, 0.60 μm, 0.66 μm, 0.72 μm và 0.84 μm.
Tỷ lệ phủ: 20%, 60%, 80%.
Kích thước phim : 70 mm.
Ngoài loại máy ảnh MKF - 6M trên tàu vũ trụ Liên Xô còn các loại máy ảnh khác như KATE-140 với 3 băng phổ và một số máy ảnh cầm tay.
Gần đây Liên Xô đã phóng vệ tinh KOSMOS trên đó đặt các loại camera có độ phân giải cao ( tới 6 m ) và có các thiết bị quét đa phổ. Các thành tựu kỹ thuật này đã mở ra một hướng phát triển mới của kỹ thuật viễn thám Liên Xô.
2.6.5. Vệ tinh Ấn Độ
ấn độ bắt đầu phát triển chương trình Vệ tinh ấn độ IRS (Indian Remote Sensing Satellite) từ năm 1981 để hỗ trợ cho nền kinh tế của Ân độ trong các ngành như tài nguyên nước,
nông nghiệp, môi trường, địa chất, quản lý vùng biển. Cơ quan Hàng không Vũ trụ của Ân độ (Department of Space) là cơ quan của chính phủ chuyên cung cấp các dịch vụ dữ liệu từ các vệ tinh IRS. Dữ liệu của các vệ tinh IRS hiện nay được thu và phân phối ở một số nươc trên toàn thế giới. Với những Sensor có độ phân giải cao, ảnh của vệ tinh IRS đã trở thành tiền đề cho nhiều ứng dụng mới trong quy hoạch và quản lý đô thị, trong xây dựng các bản đồ có tỉ lệ lớn.
Hai vệ tinh IRS đầu tiên là IRS – 1A và IRS – 1B được tên lửa Vostok của Nga đưa lên quỹ đạo vào tháng 3 năm 1988 và tháng 8 năm 1991. Vệ tinh IRS 1A đã ngừng hoạt động năm 1992 trong khi đó vệ tinh IRS 1B còn hoạt động cho đến cuối năm 1999.
Vệ tinh IRS 1A và IRS 1B bay ở độ cao 905 km với góc nghiêng 99 độ và chu kỳ lặp lại 22 ngày. Hai vệ tinh này mang 2 sensor LISS (Linear Imaging Self Scanning) và COD chụp ảnh ở 4 kênh phổ:
Vệ tinh/Sensor Các kênh phổ Bit/pixel Độ phân giải
LISS 1 Băng 1: 0.45 - 0.52μm 7 bist 72.5 m
Băng 2: 0.52 - 0.60μm 7bist 72.5 m
Băng 3: 0.63 - 0.69μm 7 bist 72.5 m Băng 4: 0.76 - 0.90μm 7 bist 72.5 m
LISS 2 Băng 1: 0.45 - 0.52μm 7 bist 36.25 m
Băng 2: 0.52 - 0.60μm 7 bist 36.25 m Băng 3: 0.63 - 0.69μm 7 bist 36.25 m Băng 4: 0.76 - 0.90μm 7 bist 36.25 m Vào cuối năm 1999, Ân độ vẫn còn 5 vệ tinh đang hoạt động, trong đó có vệ tinh IRS 1 C là do tên lửa Molniya của Nga đưa lên quỹ đạo. Đây là tên lửa cuối cùng của Nga đưa vệ tinh của Ân độ lên quỹ đạo theo chương trình hợp tác về Vũ trụ giữa Nga và Ân độ. Vệ tinh IRS 1D và IRS P3 đều được tên lửa PSLV của Ân độ đưa lên năm 1996.
Cả hai vệ tinh IRS 1C và IRS 1D đều cho ảnh chụp có độ phân giải cao (5.8 m) ở kênh toàn sắc (0.50 - 0.75). Với độ phân giải này vào đầu năm 1998, IRS đã trở thành vệ tinh thương mại dân sự có độ phân giải lớn nhất. Hai vệ tinh IRS 1C và IRS 1D đều mang sensor WiFS (Wide Field Sensor) chụp được ảnh của khu vực lớn (770 km2/ảnh) ở 2 kênh phổ 0.63 – 0.69 và 0.77 – 0.86 với độ phân giải 190 m và sensor LISS 3 chụp được ảnh ở 4 kênh phổ với độ phân giải 23.5 m.
Vệ tinh IRS P5 được đưa lên quỹ đạo năm 1998 và IRS 2A được đưa lên quỹ đạo năm 2000, IRS 2B được đưa lên quỹ đạo năm 2004 với sensor mới LISS 4.
IRS P4 (OCEANSAT 1) là vệ tinh được dùng chủ yếu để đo đạt và quan trắc các thông số vật lý và sinh thái biển. Với sensor OCM (Ocean Color Monitor) chụp được ảnh ở 8 kênh phổ và sensor MSMR (Multi Frequency Scanning Microwave Radiometer) chụp được ảnh ở 4 kênh phổ, vệ tinh này cung cấp những khả năng quan trắc bở biển rất tốt.
IRS P5 (CARTOSAT 1) với sensor cải tiến có độ phân giải 2.5m có thể cho ảnh lập thể.
Vệ tinh này đã đáp ứng được yêu cầu của nhiều ứng dụng về mô hình bề mặt DTM (Digital Terrain Model). Vệ tinh này có thể cung cấp thông tin rất tốt để xây dựng bản đồ tỉ lệ 1:5000 với đường đồng mức 5m.
IRS P6 (RESOURCESAR 1) được đưa lên quỹ đạo năm 2000, là vệ tinh tiên tiến nhất sử dụng chủ yếu cho các ứng dụng trong ngành nông nghiệp. Vệ tinh này có những sensor sau:
Camera LISS 4 cho ảnh ở 3 kênh phổ với độ phân giải 6 m; LISS 4 với 4 kênh phổ (R, G, NIR, SWIR) với độ phân giải 23 m; và WiFS cho ảnh ở 2 kênh với đội phân giải 80 m.
Ngoài các vật mang chính nêu trên hiện nay đã có thêm nhiều nước đã phóng các vệ tinh nghiên cứu tài nguyên và môi trường của trái đất với các tính năng kỹ thuật ngày càng tiến bộ cải tiến khắc phục được các nhược điểm mà các loại vệ tinh cũ mắc phải. (Trong 1/3 thế kỉ qua đã phóng trên dưới 3000 vệ tinh).
2.6.6. Các thiết bị thu nhận đặt trên tầng máy bay
Viễn thám máy bay là một bộ phận không thể thiếu được trong kỹ thuật viễn thám. Với khoảng cách khác nhau các thông tin thu được sẽ bổ sung cho nhau để tăng độ chính xác và tin cậy.
Để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể trên một diện tích hẹp với mức độ chi tiết cao hơn người ta phải bổ sung các thông tin từ các tầng máy bay. Thông thường ở tầng này tuỳ theo các thiết bị thu nhận : máy quét đa phổ hoặc máy ảnh đa phổ mà sử dụng các loại vật mang khác nhau.
Hiện nay đối với tầng máy bay thường dùng 2 loại sensor chính sau :
1 - Máy quét đa phổ máy bay : Loại DS - 1250 ( Mỹ ) AADS - 1260 (MSS ) và QQDS - 1268. Các loại máy quét này có 11 kênh phổ với các bước sóng như sau :
- Băng 1 : 0.380 - 0.440μm - Băng 2 : 0.446 - 0.490 μm - Băng 3 : 0.495 - 0.535 μm - Băng 4 : 0.540 - 0.580 μm - Băng 5 : 0.580 - 0.620 μm - Băng 6 : 0.620 - 0.660 μm - Băng 7 : 0.660 - 0.700 μm - Băng 8 : 0.700 - 0.740 μm - Băng 9 : 0.760 - 0.860 μm - Băng 10 : 0.97 - 1.06 μm - Băng 11 : 9.75 - 11.2 μm
Máy quét đa phổ máy bay là một thiết bị quan trọng trong kỹ thuật viễn thám được đặt ở độ cao 1 - 10 km.
Độ phân giải trung bình của máy quét đa phổ máy bay tuỳ thuộc vào độ cao bay.
Bảng 2.3. Độ phân giải máy quét đa phổ máy bay
Điều kiện bay Chiều cao cách Độ phân giải Bề ngang Diện tích
mặt đất (m) mặt đất (m) chụp (km) quét (km2/h) Bay thấp 500 1.25 1.2 325
Bay trung bình 4000 10.0 9.5 3.450
Bay cao 10.000 25.0 24.0 13.000
2- Máy ảnh đa phổ
Trong kỹ thuật viễn thám ngoài sử dụng một số máy ảnh thông thường còn sử dụng các loại máy ảnh đa phổ. Đó là tập hợp của nhiều máy ảnh có kính lọc khác nhau nhằm tạo ra các bức ảnh của một cảnh với nhiều bước sóng khác nhau. Việc lựa chọn các số lượng các bước sóng này khá phức tạp và cuối cùng các hàng chế tạo máy ảnh đều chọn các bước sóng gần tương ứng với các bước sóng của máy quét đa phổ hoặc các máy ảnh đa phổ vũ trụ.
Hình 2.22. Máy ảnh đa phổ ACD
Đối với các nước tham gia chương trình intercosmos thì dùng máy ảnh đa phổ MKF - 6. Ngoài loại này hiện nay thường dùng MSK - 4 loại này được lắp trên máy bay AH - 30 được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực nông nghiệp, địa chất, thuỷ văn, hải dương, địa lý, bản đồ bảo vệ môi trường và các lĩnh vực khác.
Một số thông số kỹ thuật :
Tiêu cự ống kính : 125 mm.
Góc quét : 38o.
Kích thước ảnh : 70 mm × 93 mm.
Độ phân giải : 150 đường / mm.
Các bước sóng của kính : 0.48 - 0.54 μm.
Lọc màu : 0.60 - 0.68 μm.
0.72 - 0.84 μm
Tỷ lệ phủ 20%, 60% và 80%.
Kích thước phim 71 mm (loại cuộn).
Hiệu thế làm việc 29-24 vôn
Ngoài ra còn nhiều loại máy ảnh đa phổ khác như MB - 490 do hãng NAC (Nhật Bản) và WiLLD (Thuỹ sỹ) hợp tác sản xuất trên nguyên tắc lắp ráp 4 máy ảnh RC.10 (của Thuỵ sỹ) tương ứng với 4 băng 4, 5, 6 và 7 của MSS thuộc vệ tinh Landsat (0.5-0.6 μm, 0.6-0.7 μm, 0.7-