2.3.1. Kênh phân phối Lúa Gạo
Tiêu thụ lúa gạo của từng vùng nước ta có sự khác biệt: Đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phía Bắc nông dân thu hoạch lúa rồi tự phơi sấy, cất
Nông dân Thương nhân Người xay xát Thương nhân Người tiêu
dùng
Công ty lương
thực Nhà nước Người xuất
khẩu
trữ hay bán cho các đại lý trong vùng để tiêu thụ tại địa phương. Một phần thóc của những tỉnh có dư thừa so với nhu cầu của địa phương được vận chuyển tiêu thụ ra ngoài vùng. Theo kênh tiêu thụ này, người thu gom thu mua lúa của nông dân về xay xát và bán lại cho các đại lý đem đi phân phối cho các cửa hàng. Tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, lượng lúa gạo hàng hóa lưu thông rất lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Toàn bộ gạo xuất khẩu của Việt Nam tập trung tại hai cảng chính là Cần Thơ và Sài Gòn.
2.3.2. Sản lượng trao đổi của hộ nông dân
Bảng 9:Lượng bán theo % tổng lượng sản xuất theo mùa năm 2000.
Đơn vị: % Vùn
g I II III IV V VI VII Cả
nước Đông
xuân 16 35 35 34 44 72 77 70
Hè thu 0 0 32 41 47 49 64 60
Mùa 8 58 0 0 0 29 95 48
Cả năm 12 62 33 37 45 55 72 64
Nguồn: IFPRI
2.3.3. Thương nhân
Chia làm ba nhóm: thu mua, bán buôn và bán lẻ.
Họ có tính chuyên môn hóa cao trong nghề nghiệp với việc đầu tư hơn 80% thời gian trong việc kinh doanh gạo. Các thương nhân thu mua khoảng 96% tổng lượng thặng dư giá trị từ nông dân. Người xay xát và các công ty lương thực Nhà nước cũng thu mua lúa gạo từ nông dân, nhưng không đáng kể so với thương nhân. Sự yếu kém trong mối quan hệ giữa các công ty lương thực Nhà nước với nông dân làm cho giá cả không ổn định, nhiều công ty lương thực Nhà nước có chức năng quan trọng trong quá trình hoạt động nhưng không thu mua lúa gạo. Chỉ với 2% lượng lúa gạo thu mua được từ hộ nông dân, sự đóng góp của các công ty lương thực Nhà nước vào việc ổn định giá thực sự bị hạn chế. Do đó, tín hiệu giá cả là do khu vực tư nhân tác động đến người nông dân.
Bảng 10:Kênh thu mua lúa gạo theo tỷ lệ lượng bán của nông dân năm. Đơn vị: %
Người xay xát Thương nhân Tổ chức khác
Đông xuân 1,2 96,9 1,9
Hè thu 1,1 96,9 2,0
Mùa 8,2 90,7 1,1
Cả năm 1,6 96,5 1,9
Nguồn: “Rice Market, Agricultural Growth and Policy in Viet Nam”-Goletti.F and Minot.N (1997)
Các tổ chức khác bao gồm công ty lương thực Nhà nước và các công ty địa phương.
Thương nhân là người mua chủ yếu của nông dân và là người cung cấp chủ yếu cho các công ty lương thực Nhà nước ở ĐB sông Hồng. Sự khác biệt giữa marketing gạo ở miền Bắc và miền Nam là thành phần người thu mua. Trong cả hai vùng, người thu mua hoạt động ngay tại trang trại và liên kết người sản xuất với người bán buôn và xay xát.
Tại ĐB sông Hồng, hệ thống thương mại lúa gạo chủ yếu là trực tiếp cho người tiêu dùng trong vùng, trong khi tại ĐB sông Cửu Long hệ thống phân phối chịu sự định hướng của các công ty lương thực Nhà nước. Ngoài ra, tại ĐB sông Hồng thì người tiêu dùng là người mua chủ yếu của các công ty lương thực Nhà nước trong khi tại ĐB sông Cửu Long các công ty lương thực này bán gạo chủ yếu cho xuất khẩu hoặc các công ty lương thực khác.
Bảng 11: Quy mô hoạt động của kênh marketing Lượng gạo bán
(tấn/tháng) Giá trị (1000USD)
Thương nhân 32,7 3,0
Người xay xát 171,0 31,0
Công ty lương thực Nhà nước 4.017,0 1.594,0
Nguồn: “Rice Market, Agricultural Growth and Policy in Viet Nam”-Goletti.F and Minot.N (1997)
2.3.4. Người xay xát
Phụ thuộc vào sản lượng máy móc xay xát gạo người xay xát được phân chia thành 3 nhóm: - Xay xát thuần túy.
- Đánh bóng.
- Xay xát và đánh bóng gạo.
Thị trường trong nước, đặc biệt là khu vực nông thôn, các nhà xay xát nhỏ chiếm ưu thế và họ là người xay xát chủ yếu cho hộ nông dân, không yêu cầu về chất lượng nên sản lượng gạo thường có tỉ lệ tấm cao. Nhìn chung chất lượng gạo xay xát thấp với 45% tấm chủ yếu là do quá trình phơi khô và hệ thống kho đệm không thích hợp, quy mô nhỏ và thiết bị nghèo nàn, lạc hậu. Hầu hết lượng gạo chất lượng thấp chỉ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước.
2.3.5. Các công ty lương thực
Các công ty lương thực đóng trên các tỉnh, huyện và các vùng. Theo điều tra của IFPRI ( Viện nghiên cứu chính ách lương thực quốc tế) xác định rằng, tính chuyên môn hóa về kinh doanh lúa gạo của các công ty này thấp hơn so với quy định (43% các công ty chủ yếu là hoạt động xuất khẩu gạo và 40% là hoạt động marketing đối với thành phẩm). Ngoài ra các công ty này còn tham gia vào các hoạt động khác như kinh doanh khách sạn, nhập khẩu phân bón và vận chuyển. Nguyên nhân của tính chuyên môn hóa kém là do giảm trợ cấp của Nhà nước buộc các công ty tìm cách tăng thu nhập của họ thông qua các hoạt động khác không liên quan đến chức năng của họ.
Ở miền Nam khoảng 40% doanh thu của các công ty lương thực Nhà nước có từ những hoạt động không phải kinh doanh lúa gạo trong khi ở miền Bắc các công ty này vẫn hoạt động chủ yếu trong việc mua bán lúa gạo.
2.4. Tình hình xuất khẩu gạo