7. Cơ cấu của luận án
2.2. Những vấn đề cơ bản trong canh tân tư tưởng, xã hội, văn hóa của Phan Khôi
2.2.1. Công kích cái cũ (Nho giáo)
Mặc dù xuất thân là một nhà nho, được vỡ lòng bằng sách thánh hiền song Phan Khôi sớm có những thức nhận mới, trở thành một nhà tân học (nhờ
49
tự học), theo kịp xu hướng tư duy khoa học của Tây phương. Do vậy, khi đề cập đến vấn đề Nho giáo, Phan Khôi đã có một điểm nhìn khá toàn diện vừa từ bên trong (của một nhà cựu học), vừa từ bên ngoài (của một nhà tân học).
Ông đã đặt ra vấn đề về sự cần thiết phải đánh giá lại Nho giáo trong xã hội hiện đại qua hàng loạt các bài báo thể hiện tư duy lí luận sắc sảo và mang tính phản biện cao như: “Khổng tử với thuyết Chánh danh hay luận lý học”, “Tác hại của thuyết Tam cang và luật Cấm cải giá”; loạt bài đăng trên 21 số báo Thần chung (từ số 213 đến 249/1929) với tên gọi “Ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta”; 2 bài phê bình về quyển sách Nho giáo của Trần Trọng Kim gồm “Đọc cuốn sách Nho giáo của ông Trần Trọng Kim” (Phụ nữ tân văn, số 54/1930) và “Về bài phê bình sách Nho giáo” (Phụ nữ tân văn, số 63/1930).
Trong loạt bài viết này, ngoài mục đích để cho đại đa số công chúng hiểu hơn về Nho giáo - một học thuyết gần như ăn sâu bám rễ trong xã hội Việt Nam, Phan Khôi còn kịch liệt phê phán những mặt tiêu cực của học thuyết này.
Thứ nhất, Phan Khôi đã chỉ rõ sự lỗi thời và lạc hậu của Nho giáo trong xu thế phát triển của các quốc gia phương Đông ở đầu thế kỷ XX (khi xã hội từ chế độ quân chủ chuyển sang chế độ dân chủ). Ông cho rằng, “cái đạo của ngài chẳng những không hợp thời, không dụng trong thời nay, mà lại, những chỗ không hợp thời ấy, những chỗ không dụng ấy, nếu còn vướng víu trong óc chúng ta, là kẻ cần kiểm cách “sanh hoạt mới” ở đời này, thì cũng còn là không lợi cho ta vậy” [5, tr 42-43]. Học thuyết Nho giáo hỗ trợ tích cực cho sự bình ổn của một thiết chế xã hội mà quyền lực tập trung gần như tuyệt đối ở tầng lớp thống trị. Khi mọi mối quan hệ xã hội được quy định theo những định chế khắt khe và tất yếu sẽ dẫn đến bóp chết quyền lợi của mỗi cá nhân.
Nho giáo không chú trọng sự tự do phát triển con người cá nhân mà chú trọng đào tạo và chăn dắt con người phận vị. Mỗi cá nhân muốn tiến thân thì trước
50
hết phải tu thân và chấp nhận cách sống khắc kỷ theo lễ nghĩa. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ trong xã hội.
Thứ hai, với Nho học, Phan Khôi phản đối tư tưởng học cốt để thuộc nhiều sách, học để làm bài thi cho hay, để đỗ đạt, để thành danh chứ không cốt để vận dụng kiến thức vào thực tế đời sống. Ông cho rằng, “đặt ra khoa cử để làm cái lồng nhốt sĩ phu và kết quả là làm cho tâm trí của người ta trở nên hèn yếu và tri thức hẹp hòi. Mà, muốn nói rằng kết quả của nó là mất nước, cũng không phải là quá đáng” [5, tr 52]. Lối học khoa cử, tầm chương trích cú làm lu lấp trí khôn và nô lệ học vấn thì làm sao mà phát triển tư duy độc lập, làm sao tự chủ được. Chính vì trong xã hội đã hình thành quan niệm rất ấu trĩ là khi không cho thi nữa thì các nho sĩ không cần phải học, đốt sách cho xong.
Theo Phan Khôi, giáo dục kiểu này đã “làm tối tắt lòng người” [5, tr 51].
Thứ ba, Việt Nam nói riêng và các nước phương Đông nói chung là những nước sống nhờ vào nông nghiệp. Thế nhưng Nho giáo lại có ý “khinh nông”. Đây là một điểm bất hợp lý trong thuyết giáo của Khổng Tử. Tư tưởng này ảnh hưởng đến quan niệm sống của con người. Phan Khôi đã phê phán tư tưởng này của Nho giáo và qui kết đó là lí do vì sao người người đua nhau học để làm quan chứ nhất định không muốn làm dân, “người An Nam mình vì chịu ảnh hưởng của cái thuyết khinh nông ấy, nên người nào ôm cuốn sách đi học là cố chịu kiếm ăn trong sự học đó chớ không lo sanh lý gì cả, một nghề gì cũng không biết”. Thậm chí họ sẵn sàng chọn lựa những nghề phỉnh dụ người khác (coi bói, coi tướng, ...) để lấy tiền thiên hạ mà vẫn thấy mát mặt hơn lao động nông nghiệp. Ấy thế mà xã hội vẫn tôn họ lên bằng danh xưng là “thầy”! Sự ảnh hưởng tai hại của thuyết khinh nông này mãi cho đến tận ngày nay vẫn còn tồn tại trong tư duy của người dân Việt. Và tất nhiên nó kéo theo hàng loạt những hệ lụy cho xã hội.
51
Thứ tư, Phan Khôi đã chỉ ra tác hại của thuyết tam cang và luật cấm cải giá. Từ đời nhà Hán, thuyết Ngũ luân (gồm năm mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè) được đổi thành Tam cang (gồm ba mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ). Kéo theo đó sự bình đẳng giữa hai đối tượng trong mỗi mối quan hệ bị tước mất, tạo nên sự phụ thuộc giữa tôi và vua, con và cha, vợ và chồng. Mầm mống của sự bất công xã hội bắt nguồn từ đây và cũng là nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng nam nữ trong xã hội. Sau Tam cang của Hán nho, Tống nho lại đề xuất thêm một bước nữa khi đưa ra luật cấm cải giá để ràng buộc người phụ nữ. Hàng loạt bi kịch nảy sinh từ những quy định bất hợp lý này. Phan Khôi đã có hàng loạt những bài viết đấu tranh cho vấn đề nữ quyền và gián tiếp lên án luật lệ khắc nghiệt của Tống nho.
Như vậy, khi đặt ra vấn đề phân biệt giữa Tống nho với Hán nho hay Nho nguyên thủy (của Khổng Tử), Phan Khôi đã thể hiện tinh thần hết sức khách quan khi luận bàn về một học thuyết có sức ảnh hưởng sâu rộng đối với các nước phong kiến phương Đông, trong đó có Việt Nam. Ngoài loạt bài viết về “Cái ảnh hưởng của Khổng giáo tại nước ta” (in trên Thần chung, Sài Gòn, năm 1929), Phan Khôi còn có 4 bài viết về “Đôi điều nên biết về Nho giáo”
(in trên Đông Tây, Hà Nội, năm 1931) đã phân tích rành mạch và lên án Tống nho về những tác hại mà học thuyết này đã gây ra; kiên quyết cho rằng Khổng giáo không thể dung được với Tây học ngày nay, Khổng giáo không thể áp dụng cho một thể chế dân chủ.
2.2.2. Khẳng định cái mới của văn minh phương Tây
Cuộc tiếp xúc Đông–Tây diễn ra ở Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trên phương diện văn hóa đã xảy ra những “đụng độ”.
Tính bảo thủ ăn sâu trong tiềm thức của giới sĩ phu người Việt nên chấp nhận thay đổi là việc hết sức khó khăn. Thêm vào đó, với suy nghĩ thay đổi nghĩa là đi theo giặc, là phản quốc, đã khiến rào cản ấy càng khó vượt qua. Thấu hiểu
52
sự lưỡng lự này của sĩ phu người Việt nên Phan Khôi đã có những phân tích, lý giải ráo riết để hối thúc họ có sự lựa chọn phù hợp.
Thực tế, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, trường Đông kinh nghĩa thục đã nêu rõ tinh thần nền học mới mà trường dự định thực hiện trong tác phẩm Văn minh tân học sách. Các nhà nho tiến bộ của phong trào lúc này đã có quan điểm tiến bộ khi nhận thức rằng văn minh bắt nguồn từ sự thay đổi tư tưởng và do đó cần phải có cạnh tranh. Họ cho rằng đặc tính của văn minh phương Tây là luôn luôn động, bởi phương Tây có một thiết chế xã hội coi trọng dân chủ, đề cao tinh thần phản biện để hướng đến điều chỉnh và hoàn thiện mọi hoạt động xã hội, bởi có một đường lối giáo dục chuyên nghiệp và hướng đến đào tạo thế mạnh ở mỗi cá nhân để có thể phát huy được thế mạnh ấy ở những lĩnh vực khác nhau trong đời sống; Động khi luôn coi trọng tính thực tế của việc lĩnh hội kiến thức; Động bởi người Tây không ngại “di chuyển”, họ thích đi du lịch, thích thám hiểm đến nhiều vùng đất khác nhau và vì thế rất dễ hấp thụ cái mới. Chính vì thế để có thể hướng đến văn minh thì cần phải nâng cao dân trí. Hay có thể đặt ra ngược lại vấn đề rằng dân trí cao là biểu hiện của văn minh [94, tr 205].
Phan Khôi có nhiều chia sẻ với quan điểm duy tân đó. Trên Đông Pháp thời báo (số ra ngày 27/9/1928 và 2/10/1928) với bài viết “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương”, Phan Khôi đã chỉ ra sự khác biệt giữa Đông phương và Tây phương là: Đông phương chuộng huyền học/Tây phương chuộng khoa học; Đông phương quý an phận/Tây phương quý tấn thủ; Đông phương trọng thống thuộc/Tây phương trọng tự chủ. Và trong cái nhìn của Phan Khôi, hệ quả quan trọng của khác biệt này là vấn đề liên quan đến chủ nghĩa cá nhân (individualisme). Ông giải thích: “chữ tự chủ ở đây có nghĩa là mỗi người làm chủ lấy mình, cũng tức là cá nhân chủ nghĩa. Ở phương Tây, nói rằng “một người”, nghĩa là đối với thế giới, đối với quốc gia mà nói, chớ
53
không phải phiếm nhiên. Đã gọi là người, thì người nào cũng vậy, ai ai cũng có cái địa vị cái tư cách đối với thế giới đối với quốc gia... Bởi đó mới có sự tự do... bởi đó mới có sự bình đẳng... có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau” [3, tr 105]. Chính từ tính tự chủ ở mỗi cá nhân này mà xã hội phương Tây phát triển, thực hành được dân trị, tức chế độ dân chủ - một việc còn rất khó đối với xã hội phong kiến Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Bởi muốn tự chủ, muốn đi theo chủ nghĩa cá nhân thì mỗi cá thể phải độc lập suy nghĩ, phải biết đưa ra những phán đoán hợp lý, đồng thời cần chủ động trong mọi vấn đề.
Chính vì thế, trong bài “Cá nhơn chủ nghĩa” (Trung lập, ngày 28.11.
1931) Phan Khôi đã chỉ ra sự liên hệ của chủ nghĩa cá nhân với tư tưởng dân chủ. Ông không tin tưởng vào khả năng thực hành, áp dụng tư tưởng dân chủ của người Việt bởi trong môi trường xã hội từ xưa đến giờ khái niệm này chưa được đề cập và còn khá xa lạ đối với nhiều người. Theo Phan Khôi, sự khác nhau căn bản giữa tính “thống thuộc” của người phương Đông và tính tự chủ của người phương Tây chính là nguyên nhân làm cho quá trình tiếp thu tư tưởng dân chủ của người Việt khá khó khăn. Bên cạnh đó, sự cấm đoán bộc lộ cái tôi trong xã hội phong kiến Á Đông hàng ngàn năm qua cũng là rào cản đáng kể trong việc tiếp cận cái mới.
Ngoài ra, Phan Khôi cũng viết bài để “Bác cái thuyết văn minh vật chất và văn minh tinh thần” (Phụ nữ thời đàm, 1933). Phan Khôi cho rằng hai khái niệm văn minh vật chất và văn minh tinh thần phản ánh cùng một thực thể - chúng gắn liền nhau. Tinh thần là tri thức khoa học còn vật chất là sản phẩm do khoa học sáng chế ra. Bằng việc đưa ra hàng loạt những dẫn chứng rất xác thực, Phan Khôi đã thẳng thắn khuyên người Việt “phải tỉnh ngộ lại, phải thành thật nhận mình là thua kém, thua kém về vật chất bởi thu kém về tinh thần, tức là thua kém về các sản phẩm khoa học bởi vì ta thua kém về tri thức
54
khoa học. Ta nên biết cái trình độ của ta ước chừng nằm vào khoảng Trung thế kỷ (moyen àge) của Âu châu, còn tối tăm lắm, còn vụng dại lắm, chẳng có tinh thần gì đâu mà làm phách” [15, tr 133].
Như vậy, qua việc so sánh sự khác nhau căn bản về tư tưởng của hai nền văn hóa Đông–Tây, Phan Khôi đã nhìn nhận, khẳng định tính ưu việt của tư tưởng Tây phương. Đó là tinh thần tự do và bình đẳng, đề cao quyền con người, khuyến khích khám phá chinh phục thiên nhiên, phát triển khoa học để phục vụ cho lợi ích của con người.
2.2.3. Đề cao tư tưởng bình đẳng giới và nữ quyền ở Việt Nam
Mặc dù bình đẳng giới liên quan đến tư tưởng chống Nho giáo nhưng thực tế nhiều người chống Nho mà vẫn khắt khe với phụ nữ, nhất là không hề khuyến khích phụ nữ học hành và tham gia hoạt động xã hội. Về điểm này Phan Khôi đã triệt để hơn và xứng đáng là người mở đường cho phong trào nữ quyền Việt Nam trong bước khởi đầu hiện đại. Mặt khác, bình đẳng giới là một hiện trạng xảy ra ở cả những xã hội không mang tư tưởng Nho giáo – tức là một vấn đề mang tính nhân loại, vì thế việc đề cao tư tưởng bình đẳng giới của Phan Khôi việc làm có ý nghĩa gắn hoạt động văn hoá bản địa với xu thế chung của thế giới.
Trong vòng tám năm (từ 1928 đến 1935) Phan Khôi đã có gần 77 bài báo đề cập đến những vấn đề liên quan đến phụ nữ. Con số này cho thấy ông đặc biệt chú trọng đến tình trạng bất bình đẳng giữa nam và nữ. Những nội dung cơ bản về vấn đề nữ quyền được Phan Khôi đề cập ở các bài báo là: tư tưởng bình đẳng giới, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Hơn nữa ông còn nhấn mạnh khả năng tri thức của phụ nữ và khẳng định họ có thể tham gia, thậm chí rất thành công ở các vấn đề văn hóa – xã hội.
Trước hết, Phan Khôi muốn xóa bỏ định kiến cổ hủ coi thường phụ nữ, trọng nam khinh nữ. Một loạt bài trên Phụ nữ Tân văn như “Theo tục ngữ
55
phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta” (số 5, ngày 30.5.1929),
“Chuyện một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị tử hình” (số 50, ngày 1.5.1930),
“Xóa một cái án trong lịch sử: thân oan Võ Hậu” (số 53, ngày 22.5.1930),
“Trời vua với đàn bà con gái” (số 121, ngày 3.3.1932).... Phan Khôi đã công khai bênh vực cho những người đã mất và cả những người hiện thời. Theo ông, xuất phát từ tư tưởng nam quyền nên xã hội dồn ép người phụ nữ vào vị trí thấp kém, chỉ biết chấp nhận, thuần phục và nín nhịn. Xã hội muốn phát triển hướng đến văn minh cần thay đổi lối nghĩ này, mà đặc biệt bản thân phụ nữ phải tự nhận thức và tìm mọi cách để thay đổi tình trạng của chính mình.
Đồng thời với việc khẳng định quyền bình đẳng giới, Phan Khôi cũng cho rằng người phụ nữ có vai trò hết sức quan trọng trong gia đình. Họ không những phải gánh vác rất nhiều phần việc để duy trì đời sống kinh tế (lao động sản xuất nông nghiệp, buôn bán...) mà còn có trách nhiệm trong việc giáo dưỡng con cái. Trong các bài viết trên Phụ nữ tân văn như “Việt Nam phụ nữ liệt truyện” (số 7, ngày 13.6.1929), “Một cái gương sáng cho người mẹ” (số 9, ngày 5.9.1929)... Phan Khôi đề cập rất cụ thể về khía cạnh này. Người mẹ như là một tấm gương sáng để hướng đến sự hình thành nhân cách đạo đức cho những đứa con. Nếu chỉ xem phụ nữ như là những “chiếc máy đẻ”, là trò tiêu khiển cho đàn ông thì thật sự sai lầm. Chức năng giáo hóa của họ trong gia đình, đặc biệt là đối với những đứa con là rất lớn. Quan điểm này của Phan Khôi gắn liền với tư tưởng nhân văn sâu sắc trong dân gian “phúc đức tại mẫu”. Từ đây, ông quyết liệt đả phá chế độ đa thê, hôn nhân cưỡng bức, và chia sẻ với phụ nữ về việc không nhất thiết phải thủ tiết thờ chồng mà chôn vùi tuổi trẻ cùng khát vọng hạnh phục chính đáng. Với ông đó là “sự nhẫn tâm, vô đạo”. Trong bài “Tống Nho với phụ nữ” đăng trên Phụ nữ tân văn (số 95, ngày 13.8.1931), Phan Khôi đã mạnh mẽ chỉ trích “cái phong tục man rợ
56
mà người ta xưng tụng là thủ tiết trong xã hội Trung Hoa và Việt Nam” [74, tr 130] và hô hào chị em phụ nữ hãy nên “phế trừ” cái tục “trái tính trời” ấy đi:
“Trong phụ nữ ta có rất nhiều người chồng chết, ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ một trăm thứ, vậy mà nói đến truyện cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có người bóp bụng cắn răng cũng giữ được trót đời; nhưng có người khôn ba năm dại một giờ, thì ra mang cái xấu lại còn hơn cải giá. Lại thường thấy bà góa nào có máu mặt thì bọn điêu ngoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong đoạt lấy gia tài. Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà ra; vậy thì nó chỉ lại hại cho phong hóa thì có chớ có bổ ích gì đâu? Bởi vậy ta nên phế trừ cái luật ấy đi; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa” [8, tr142-143].
Quan trọng và tích cực hơn trong cách nhìn nhận của Phan Khôi về phụ nữ là khẳng định vai trò của họ đối với xã hội. Theo ông trước hết phụ nữ phải có “quyền tri thức”, nghĩa là phải được đi học. Qua viện dẫn và phân tích ở một số bài báo trên Phụ nữ tân văn như “Về văn học của phụ nữ Việt Nam”
(số 1, ngày 2.5.1929), “Văn học với nữ tánh” (số 2, ngày 9.5.1929), “Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thạnh” (số 3, 16.5.1929), Phan Khôi đã chỉ ra mối liên hệ giữa phụ nữ và văn học bởi hai phạm trù này có điểm tương đồng là đều biểu hiện cho cái đẹp. Và cũng từ quan điểm này ông rút ra nhận xét rằng với tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc và giàu lòng trắc ẩn phụ nữ sẽ dễ dàng thành công ở hai lĩnh vực, cụ thể là hai nghề là viết văn và làm thuốc.
Không chỉ vậy Phan Khôi cũng rất ủng hộ nữ giới tham gia vào các hoạt động chính trị, diễn thuyết, khiêu vũ, thể thao, thời trang... Quan điểm này được thể hiện qua loạt bài trên Phụ nữ tân văn như “Cuộc vận động ở nước Triều Tiên” (số 138, ngày 6.6.1932 và 144, ngày 16.6.1932), “Câu