Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta

Một phần của tài liệu Quản lý nhà nước về du lịch thực trạng và giải pháp (Trang 22 - 29)

1. Về hệ thống pháp luật du lịch.

Mặc dù pháp lệnh du lịch đã được công bố và là một văn bản pháp luật mang tính pháp lý cao nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực du lịch nhưng việc ban hành các văn bản thi hành vẫn còn chậm chạp. Do đó đã gây ra những hạn chế nhất định trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch và bản thân hoạt động của các doanh nghiệp du lịch. Các văn bản hiện nay mới chỉ là các văn bản pháp quy dưới luật nên tính ổn định pháp lý của các văn bản này không cao mà du lịch lại là lĩnh vực rất rộng, có liên quan đến nhiều ngành và lĩnh vực khác. Hơn nữa công tác tuyên truyền, hướng hẫn thực thi còn hạn chế, chưa nhanh nhay vơí những biến động của nền kinh tế thị trường.

Việc ban hành nghị định, nghị quyết, chỉ thị, văn bản hướng dẫn trong thời gian qua là phù hợp tuy nhiên việc triển khai thực hiện chưa được tốt ở doanh nghiệp, nguyên nhân là do:

- Việc nhận thức của các doanh nghiệp về văn bản pháp luật chưa đúng đắn.

- Việc ban hành các văn bản pháp luật đôi khi chưa hợp lý, còn chồng chéo giữa các ngành hoặc chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành hữu quan trong việc ban hành pháp luật.

- Các văn bản pháp luật ban hành mới chỉ nhằm giải quyết kịp thời từng vấn đề nảy sinh trong hoạt động du lịch vì vậy các văn bản chưa có hệ thống trong một khung pháp lý gắn bó chặt chẽ với nhau.

Môi trường pháp lý là hết sức quan trọng đối với mọi lĩnh vực kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh du lịch. Do vậy để xây dựng một môi trường pháp lý phù hợp thì trước tiên hệ thống pháp luật du lịch phaỉ được nhất quán, đồng bộ và phù hợp với điều kiện của đất nước. Đó là cơ sở pháp lý để xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng, tổ chức doanh nghiệp và các cá nhân trong hoạt động và phát triển du lịch ở nước ta.

2. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch.

Mặc dù công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch (chủ yếu là doanh nghiệp khách sạn, doanh nghiệp lữ hành và vận chuyển khách du lịch) đã có nhiều cố gắng song vẫn còn một số hạn chế sau:

- Các văn bản quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh khách sạn chưa phát huy hết hiệu lực trong thực tế. Nguyên nhân do các bộ các ngành không quan tâm đúng mức và không có sự chỉ đạo kiên quyết của Chính phủ.

- Chức năng quản lý Nhà nước về khách sạn còn chồng chéo, ảnh hưởng đến hoạt động king doanh của khách sạn do cung vượt quá cầu.

- Đối với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước ngày càng gay gắt, thiếu lành mạnh, môi trường kinh doanh lộn xộn. Điều này tạo điều kiện cho các hãng lữ hành nước ngoài lợi dụng ép giá cũng như can thiệp sâu hơn vào hoạt động kinh doanh của Việt Nam.

- Tình trạng kinh doanh lữ hành trái phép, nép bóng, bán chức năng đang diễn ra ngày càng phức tạp. Một số doanh nghiệp lữ hành quốc tế tự ý hình thành nhiều trung tân du lịch mà không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chúng ta buông lỏng để các trung tâm này hoạt động trái pháp luật, gây phá giá, trốn thuế, làm xáo trộn thị trường du lịch, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc.

Nhiều doanh nghiệp lữ hành trong nước còn thụ động, không chủ động vươn ra thị trường nước ngoài để tiếp cận mở rộng thị trường và tìm kiếm nguồn khách hoạt động, đối tác vì vậy hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này còn thấp.

Nguyên nhân là do công tác quản lý, kiểm tra, kiển soát của các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch nói chung và về lữ hành nói riêng còn bị buông lỏng.

Việc xử lý không nghiêm túc các vi phạm cũng đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp kinh doanh trái phép, coi thường pháp luật kỷ cương; việc áp dụng luật thuế VAT còn nhiều bất cập, một số thuế suất dịch vụ chưa phù hợp, gây trở ngại cho các hoạt động doanh nghiệp. Chính sách thuế, chính sách ưu đãi về vốn và đầu tư đổi mới ngành du lịch còn ít được quan tâm. Chính sách tiền lương còn

bất cập chưa khuyến khích được các doanh nghiệp tích luỹ vốn, đổi mới phương tiện và công nghệ, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.

3. Về công tác quản lý và quy hoạch du lịch.

Có thể nói công tác quản lý và quy hoạch du lịch ở nước ta đã đạt được những kết quả nhất định nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế. Năm 1995, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt dự án '' Quy hoạch tổng thể và phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010'', song nhiều khu tài nguyên du lịch được xác định để xây dựng các điểm du lịch đã bị khai thác, chen lấn hoặc xây dựng cho những mục đích khác nhau.

Trong những năm qua, việc phát triển du lịch thiếu quy hoạch, kế hoạch đã dẫn đến việc xây dựng hàng loạt các cơ sở lưu trú, các khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ một cách nhanh chóng, ồ ạt. Nhiều nhà nghỉ, nhiều khách sạn thiếu thẩm mỹ kiến trúc, không tuân theo các quy định về cấu tạo địa chất, về độ cao, cấu trúc không gian mở, gây ảnh hưởng cho cảnh quan, mất đi vẻ tự nhiên cho phong cảnh khu, điểm du lịch.

Ngoài ra tại các điểm khu du lịch, nạn hàng rong, chèo kéo khách, cướp giật, ăn xin, mất vệ sinh... vẫn tồn tại bất chấp các cơ quan quản lý. Nguyên nhân là do các cơ quan này còn buông lỏng công tác quản lý cũng như việc xử phạt hành chính nên các vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để.

Những tình trạng trên do một số nguyên nhân sau:

- Việc phối hợp giưa UBND các tỉnh, thành phố với Tổng cục du lịch còn chưa thống nhất.

- Việc đầu tư vốn để thực hiện quy hoạch còn chưa hợp lý.

- Thiếu vốn đầu tư, thủ tục hành chính phức tạp, rắc rối, cản trở không nhỏ đối với nguồn đầu tư nước ngoài, khả năng huy động vốn trong nước thấp.

- Nguồn nhân lực phục vụ trong các khu vui chơi giải trí đang rơi vào tình trạng dư người. Kinh nghiệm tổ chức, quản lý khai thác ở các khu vui chơi giải trí còn yếu.

- Việc quản lý các khu, điểm du lịch còn chồng chéo giữa UBND các địa phương với các sở du lịch và Tổng cục du lịch.

- Theo kết luận của Tổng cục du lịch: du khách nước ngoài đến ta không có gì để mua. Từng địa phương, từng điểm du lịch đáng lẽ phải có những vật kỷ niệm mang đặc điểm, sắc thái của riêng mình nhưng lại toàn những thứ y như nhau và có thể mua ở Hà Nội.

Những tình trạng trên cần được khắc phục để đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước về du lịch.

4. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho du lịch.

Đội ngũ cán bộ của ngành tuy có sự trưởng thành về số lượng và chất lượng, nhưng cơ cấu thiếu hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Các cán bộ công nhân làm việc trong ngành vẫn còn hạn chế nhiều về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch chưa phát triển đồng bộ, thiếu thống nhất và thiếu sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo. Do đó, chất lượng đào tạo không đều, ảnh hưởng đến việc thực thi nghiệp vụ du lịch.

Chưa có sự phối hợp giữa các Sở đào tạo với các doanh nghiệp du lịch trong việc tổ chức cho các sinh viên trong ngành du lịch được tham gia làm một hoặc

kết hợp lý thuyết vơí thực hành là vô cùng quan trọng vì kỹ năng của sinh viên sau khi ra trường kém, doanh nghiệp du lịch phải mất tiền của, thời gian để đào tạo lại gây lãng phí.

Vấn đề tồn tại lớn nhất của du lịch nước ta về công tác đào tạo đội ngũ trong ngành là chưa tiến hành đánh giá, phân loại chất lượng đội ngũ lao động doanh nghiệp vì vậy chưa xây dựng được chiến lược phát triẻen nguồn nhân lực lâu dài.

5. Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch.

Công tác quảng bá, tiếp thị cho du lịch là một công việc quan trọng hàng đầu nhằm tăng cường thu hút khách du lịch. Nhưng cho đến nay, ngành du lịch nước ta vẫn chưa xây dựng được kế hoạch và chiến lược thực thi cho công tác tiếp thị toàn ngành.

Việc nghiên cứu thị trường vẫn chưa tập trung, còn mang tính chất tự phát ở một số doanh nghiệp chứ chưa mang tầm quốc gia. Vì thế du lịch Việt Nam chưa nắm được xu thế vận động của từng loại thị trường để so sánh nhằm đầu tư, khai thác cho từng loại thị trường cụ thể.

Kinh phí cho công tác quảng bá còn quá thấp, chỉ khoảng 100.000 USD/năm.

Trong khi đó bình quân một năm Tổng cục du lịch Thái Lan đã phải chi 60 triệu USD, Singapo là 80 triệu USD. Điều này cho thấy việc đầu tư quảng bá, xúc tiến du lịch ở nước ta còn quá ít, không đủ điều kiện để thực hiện.

Trên thực tế, cho đến nay, du lịch Việt Nam chưa có một văn phòng đại diện nào ở nước ngoài. Trong toàn ngành có 100 công ty lữ hành quốc tế thì chỉ có 13 công ty có văn phòng đại diện ở 12 nước trên thế giới.

Nhiều công ty lữ hành đã hoạt động 3-4 năm nhưng chưa một lần tham gia hội chợ du lịch thế giới. Công tác hợp tác quốc tế của ngành mới chỉ là bước đầu và

đang trong quá trình chuẩn bị cho hội nhập nên chưa thật chủ động và đạt hiệu quả cao.

CHƯƠNG III

Một phần của tài liệu Quản lý nhà nước về du lịch thực trạng và giải pháp (Trang 22 - 29)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(39 trang)
w