Phương pháp điều tra

Một phần của tài liệu Giáo trình lý luận dạy học sinh học chương 1 nguyễn phúc chỉnh (Trang 31 - 36)

1.5. Các phương pháp nghiên cứu lí luận dạy học Sinh học

1.5.2. Phương pháp điều tra

Là phương pháp khảo sát thực trạng về những vấn đề có liên quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu của đề tài, được tiến hành trên các mẫu điều tra phù hợp với đối tượng nghiên cứu đảm bảo ý nghĩa thống kê, với những đại diện đủ rộng nhằm phát hiện những ưu, nhược điểm thông qua qui luật phân bố, trình độ phát triển và những đặc điểm đối tượng nghiên cứu làm điểm tựa về mặt thực tiễn nói lên tính cấp bách của đề tài nghiên cứu.

Phương pháp điều tra thu thập dữ liệu một cách khoa học làm bộc lộ thực trạng khách quan là khâu quan trọng nhất của hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục. Để thu thập dữ liệu trong nghiên cứu, chúng ta thường sử dụng các phương pháp như: Phương pháp dùng phiếu hỏi, Phương pháp phỏng vấn;

phân tích nội dung; quan sát và trắc nghiệm.

1.5.2.1. Điều tra bằng phiếu hỏi

Bản chất của những câu hỏi đặt ra phải xuất phát từ “vấn đề” nghiên cứu. Câu hỏi đặt ra phải đơn giản, cụ thể, rõ ràng (nhằm đúng đối tượng, phạm vi nghiên cứu) và đảm bảo nguyên tắc có thể kiểm chứng được câu trả lời. Thí dụ, câu hỏi: “Có bao nhiêu học sinh đến trường hôm nay?”. Câu trả lời được thực hiện đơn giản bằng cách đếm số lượng học sinh hiện diện ở trường. Nhưng một câu hỏi khác đặt ra: “Tại sao bạn đến trường hôm nay?”.

Rõ ràng câu hỏi này thực sự khó kiểm chứng và khá phức tạp vì phải tiến hành điều tra học sinh.

Cách đặt câu hỏi để có thể kiểm chứng được câu trả lời giúp có được thông tin về thực trạng vừa làm sáng tỏ tính cấp bách của đề tài, vừa khẳng định được việc chọn chủ đề nghiên cứu (topic) thích hợp, và theo đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định và thu thập các tài liệu tham khảo, các thông tin cần thiết có liên quan.

Có nhiều dạng khác nhau của câu hỏi để điều tra như: câu hỏi trắc nghiệm chủ quan và câu hỏi trắc nghiệm khách quan ở các dạng khác nhau, ví

dụ các câu hỏi có cấu trúc kín hoặc các câu hỏi mở hay câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn:

- Câu hỏi mở: là dạng câu hỏi có số liệu thu thập không có cấu trúc hay số liệu khó được mã hóa. Câu hỏi cho phép câu trả lời mở và có các diễn tả, suy nghĩ khác nhau hơn là ép hoặc định hướng cho người trả lời.

- Câu hỏi kín: là dạng câu hỏi có số liệu thu thập có thể tương đối dễ dàng phân tích, mã hóa nhưng nó giới hạn sự trả lời. Thí dụ, sinh viên các khóa học được đưa ra các câu hỏi nhận xét về giáo trình, bài giảng, sách, … và được chỉ định trả lời theo thang đánh giá 5 mức độ (rất hài lòng: +2; hài lòng: +1; trung bình: 0; không hài lòng: -1; rất không hài lòng: -2) để biết sinh viên thỏa mãn hay không thỏa mãn. Đây là các câu hỏi kín thể hiện sự mã hóa số liệu.

- Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn:

Thường sử dụng khi điều tra về những hiểu biết của đối tượng điều tra.

Sau đây là ví dụ về sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn để kiểm chứng được câu trả lời khi điều tra về sự hiểu biết và sự vận dụng các mức độ tích hợp GDMT trong dạy học STH và hiểu biết của GV về các tiếp cận theo GDMT qua dạy học STH.

Điều tra GV về hiểu biết và sự vận dụng các mức độ tích hợp GDMT trong dạy học STH trong câu hỏi 1 như sau:

Câu 1: Anh ( chị ) đã tích hợp GDMT thông qua dạy học STH bằng cách…

Hãy đánh dấu () cho những câu trả lời tốt nhất trong các phương án sau:

1 đưa ví dụ về suy thoái MT và biện pháp BVMT trong khâu củng cố.

2 chọn các vấn đề GDMT rồi đưa vào nội dung STH ở chỗ thích hợp.

3 khai thác giá trị GDMT trong nội dung sinh thái học.

Kết quả điều tra: Đa số GV chọn phương án trả lời thứ 1 (mức độ liên hệ), một số ít chọn phương án trả lời thứ 2 (mức độ lồng ghép). Điều này, chứng tỏ GV không biết khai thác giá trị GDMT trong nội dung sinh thái học, nên hầu hết GV đã thực hiện liên hệ GDMT trong khâu củng cố cuối bài một cách hình thức, khiên cưỡng.

Điều tra sự hiểu biết của GV về các tiếp cận theo GDMT qua dạy học STH mà GV thường sử dụng với câu hỏi số 2 sau đây:.

Câu 2: GDMT thông qua dạy học STH chỉ có hiệu quả nhất khi vận dụng…

Hãy đánh dấu () cho câu trả lời tốt nhất trong các câu sau:

1 tiếp cận theo quan điểm cấu trúc - hệ thống.

2 tiếp cận theo quan điểm tích hợp.

3 tiếp cận theo quan điểm lồng ghép.

Kết quả điều tra: Khi trả lời câu hỏi số 2, đại đa số GV chọn phương án số 2. Như vậy, có mâu thuẫn với kết quả trả lời câu số 1.

Để có thể điều tra thực chất về sự hiểu biết của GV về các mức độ tích hợp GDMT vào giảng dạy STH, và việc trả lời câu hỏi số 1 và 2 có nhất quán với nhau không. Câu hỏi số 3 sau đây cố ý gây nhiễu để xác định thực chất đó.

Câu 3: Thực hiện GDMT theo quan điểm tích hợp là...

Hãy đánh dấu () cho câu trả lời tốt nhất trong các câu sau:

1 Chương trình môn học được giữ nguyên. Các vấn đề GDMT được khai thác qua mối quan hệ hữu cơ, có hệ thống giữa kiến thức môn học chính với kiến thức GDMT thành một nội dung thống nhất.

2 Chương trình môn học được giữ nguyên. Các vấn đề GDMT liên quan đến một số nội dung của bài học, môn học được làm sáng tỏ bằng thực trạng về suy thoái môi trường và các biện pháp BVMT phù hợp thông qua các ví dụ, các bài thu hoạch về môi trường, giúp liên hệ hợp lí với nội dung GDMT.

3 Chương trình môn học được giữ nguyên. Các vấn đề GDMT được lựa chọn rồi đưa vào chương trình các môn học ở chỗ thích hợp sau mỗi bài, mỗi chương, hay hình thành một chương riêng.

Kết quả điều tra: Khi trả lời câu hỏi số 3, đại đa số GV chọn phương án số 2 (mức độ liên hệ), một số ít chọn phương án trả lời thứ 3 (mức độ lồng ghép). Nghĩa là họ hiểu mức độ tích hợp đơn giản là việc đưa kiến thức từ ngoài vào chứ không phải là việc khai thác kiến thức GDMT qua mối quan hệ hữu cơ từ kiến thức STH mà ra. Điều chứng tỏ họ không hiểu bản chất của mức độ tích hợp nhưng vẫn rất hay dùng thuật ngữ tích hợp giống như một thói quen hoặc nói theo sách. 11

Phiếu trả lời câu hỏi (schedules) còn gọi tắt là “phiếu hỏi” được thiết kế và sử dụng nhiều nhất trong các công trình nghiên cứu khoa học giáo dục, gồm các bước sau:

- Xây dựng kế hoạch điều tra: Mục đích, đối tượng, địa điểm,…

11 Dương Tiến Sỹ. Giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học Sinh thái học lớp 11 trường trung học phổ thông. Luận án tiến sĩ giáo dục. 1999

- Xây dựng các mẫu phiếu hỏi với các thông số, các chỉ tiêu cần làm sáng tỏ.

- Thu thập và xử lí số liệu điều tra: bằng thống kê tóan học.

a. Cách soạn thảo phiếu hỏi

Để đảm bảo nguyên tắc có thể kiểm chứng được câu trả lời. Việc soạn câu hỏi là một công việc khá công phu, phải chú ý đến từng câu, từng chữ, và cách trả lời có thể có của người được hỏi. Người nghiên cứu phải xem xét kỹ từng câu hỏi và tự mình phê phán các câu hỏi ấy theo các tiêu chuẩn sau:

- Có thể câu hỏi chuyển đến người được hỏi một ý nghĩa khác hẳn với ý ta dự kiến hỏi hay không?

- Câu hỏi hay cách trả lời có hạn chế hay làm lệch lạc lối giải đáp hay không?

- Cách thức trả lời có khiến cho việc xử lý các dữ kiện sau này được dễ dàng không?

- Nếu phải sử dụng máy vi tính để xử lý số liệu thì cách thức trả lời có thể mã hóa được hay không?

- Hình thức phiếu hỏi có dễ đọc, dễ hiểu và dễ trả lời hay không?

b. Thử nghiệm phiếu hỏi

Sau khi bản phiếu hỏi đã được sơ thảo, bản này phải được gửi đến một số chuyên gia thuộc lĩnh vực nghiên cứu để được góp ý phê bình. Họ sẽ cho chúng ta biết những loại thông tin nào cần được thu thập, những câu hỏi nào sát hay không sát với thực tế, các câu hỏi không phù hợp cần phải được loại bỏ hay sửa chữa.

Sau khi sửa chữa, phiếu hỏi phải được thử nghiệm với một nhóm người tương tự như đối tượng ta muốn khảo sát trên diện rộng sau này. Việc thử nghiệm như vậy sẽ cho ta thấy những câu hỏi nào không thích hợp, cần tiếp tục sửa đổi và có thể cần phải thử nghiệm một lần nữa. Bằng thử nghiệm cẩn thận như vậy, bản phiếu hỏi sẽ được cải thiện và tăng độ tin cậy của kết quả điều tra.

c. Tổ chức lấy thông tin bằng phiếu hỏi

Muốn lấy được những thông tin khách quan thì những người trả lời phiếu hỏi phải được chọn ngẫu nhiên. Nếu không chọn ngẫu nhiên, câu trả lời sẽ bị lệch lạc. Để tối ưu hóa số trả lời và đồng thời để có thể kiểm soát được sự lệch lạc trong số người không trả lời, chúng ta cần phải làm cho người trả lời biết được rằng chính họ cũng sẽ đóng góp quan trọng vào một lĩnh vực

nghiên cứu liên quan đến họ bằng cách trả lời vào phiếu hỏi. Nên kèm một số thông tin sau tiêu đề của phiếu hỏi như:

- Mục đích và ý nghĩa của cuộc nghiên cứu.

- Tầm quan trọng của thông tin do người trả lời cung cấp.

- Nếu cần nêu danh tính của người trả lời thì sẽ được bảo đảm như thế nào để họ có thể thẳng thắn trả lời mà không e ngại.

- Thời hạn nộp phiếu trả lời.

Ngoài ra, nếu người nghiên cứu trực tiếp đi phát phiếu hỏi thì tỷ lệ nhận được phiếu trả lời sẽ cao hơn; nếu ủy nhiệm cho người khác phát và thu hộ phiếu hỏi thì phải chú ý đến uy tín của người được ủy nhiệm đối với những người trả lời phiếu hỏi; nếu phiếu hỏi được gửi bằng đường bưu điện thì nên kèm theo một bì thư đã dán sẵn tem và địa chỉ nơi nhận.

1.5.2.2. Điều tra bằng phỏng vấn

Phỏng vấn là một phương pháp thu thập thông tin trực tiếp từ người trả lời. Phương pháp này ít dùng hơn so với phương pháp sử dụng phiếu hỏi.

Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi ta muốn thu thập dữ kiện từ trẻ em hay những người đọc và viết không thông thạo. Phần lớn các kỹ thuật thu thập dữ liệu của phương pháp sử dụng phiếu hỏi cũng được áp dụng cho phương pháp này. Tuy nhiên, cũng cần chú ý một số khía cạnh riêng của cuộc phỏng vấn.

a. Người phỏng vấn

Hiệu quả của phương pháp phỏng vấn tùy thuộc rất nhiều vào khả năng của người phỏng vấn. Người phỏng vấn phải gây được thiện cảm với người được phỏng vấn để có sự hợp tác. Phải biết đặt những câu hỏi tế nhị, khách quan để khai thác những thông tin cần thiết trong khi phỏng vấn.

b. Các loại phỏng vấn

Có 3 loại phỏng vấn chính:

- Phỏng vấn với câu hỏi in sẵn (Interview with schedule) - Phỏng vấn điều tra hay cấu trúc hóa (structured interview) - Phỏng vấn tự do.

c. Cách thực hiện phỏng vấn

Cuộc phỏng vấn thường được thực hiện qua một số khâu:

- Chọn đối tượng phỏng vấn;

- Tiếp xúc ban đầu;

- Tạo không khí thông cảm và sự hợp tác;

- Ghi chép dữ kiện và phân tích kết quả.

Trong quá trình phỏng vấn có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật như máy ghi hình, máy ghi âm.

Một phần của tài liệu Giáo trình lý luận dạy học sinh học chương 1 nguyễn phúc chỉnh (Trang 31 - 36)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(83 trang)