Các polyeste chế tạo bằng phương pháp tự nhiên hay tổng hợp đã được đề cập tương đối chi tiết ở mục III. Polyeste cũng thuộc loại polyme có mạch chính dễ bị thủy phân. Ở đây chỉ nêu lên một vài nguyên lý chung về sự phân hủy của chúng. Hầu như các hợp chất KLPT lớn có khả năng phân hủy sinh học chỉ là polyeste. Nguyên nhân là do chúng có mạch chính dễ bị thủy phân. Người ta chỉ ra rằng polyeste đi từ monome diaxit kích thước trung bình (C6 – C12) dễ bị
nấm phân hủy hơn (aspergillus niger và aspergillus flavus) so với loại đi từ monome kích thước dài hơn hoặc ngắn hơn. Để cho một polyme tổng hợp có thể bị phân hủy sinh học bằng xúc tác enzym thì mạch polyme cần phải có cùng kích thước với phần hoạt hóa của enzym. Đố cũng là nguyên nhân vì sao các polyeste mạch no mềm dẻo thì phân hủy, còn các polyeste vòng thơm rắn thì lại không.
Polyeste di từ các alkandiol và alkan dicacboxylic axit dễ bị các hệ vi sinh vật phân hủy, nhưng những ứng dụng của chúng còn bị hạn ché, do KLPT của chúng tương đối thấp và độ bền cơ lý
không cao.
4.4.2. Polyamit
Tuy polyamit chứa cùng một loại liên kết amit như trong polypeptit, tốc độ phân hủy sinh học của chúng chậm, đến nỗi đôi khi người ta cho rằng chúng thuộc loại polyme không bị phân hủy.
Tuy nhiên đã có thông báo rằng các olygome KLPT thấp của chúng bị các enzym và vi sinh vật phân hủy. Ngay cả sợi aramit cũng bị Aspergillus tấn công. Đưa các nhóm thế vào như nhóm benzyl, hydroxyl và metyl đã làm tăng đáng kẻ mức độ phân hủy sinh học của chúng.
Polyamit với độ kết tinh cao hơn, do sự tương tác giữa các mạch (so với các polyeste cùng cấu trúc) có độ dẻo cao hơn và tốc độ phân hủy sinh học chậm hơn. Các copolyme có cả hai nhóm amit và este nói chung dễ bị phân hủy. Như chúng t among đợi, tốc độ phân hủy tăng lên cùng với sự tăng hàm lượng nhóm este.
Các protein tự nhiên ít chứa các mắt xích lặp lại. Do vậy, chúng ít có xu hướng tồn tại trong hình thái cấu trúc trật tự cao. Và cũng do vậy, nói chung chúng dễ bị enzym tấn công. Còn các
kết hydro bền giữa các mạch tạo ra một hình thái cấu trúc tinh thể trật tự cao đã hạn chế đáng kể sự tấn công của enzym. Các poly(amit – este) và poly(amit – uretan) có mắt xích lặp lại tương đối dài, chúng có tốc độ phân hủy cỡ trung bình giữa protein và polyamit tổng hợp.
4.4.3. Polyuretan và polyure
Polyuretan có thể xem có đặc tính cấu trúc của cả polyeste và polyamit, trong khi đó thì polyure có thể xem như là polyamit. Xu hướng dễ bị phân hủy sinh học của chúng có thể giống như của polyeste và polyamit, chỉ khác nhau ở tốc độ phân hủy. Nói chung phân hủy sinh học của polyuretan tùy thuộc vào tiền polyme là polyeste hay là polyete. Polyete – uretan bền với phân hủy sinh học, trong khi đó thì polyeste – uretan dễ bị vi sinh vật phân hủy. Nhiều loại vi sinh vật như Aspergillus Niger, Aspergillus Funeigatus, Fusarium solanii, Cryplococcus lasienrtii và các enzym như popanin, subtilisin có khả năng phân hủy polyuretan. Một loại polyuretan đi từ
polycaprolactondiol KLPT khác nhau và các diizoxyanat mạch thẳng và cả vòng thơm đã được xử lý với một số vi sinh vật và người ta nhận thấy rằng tốc độ phân hủy tăng với sự tăng độ dài phân đoạn polyeste. Người ta cũng nhận thấy rằng polyuretan đi từ diizoxyanat mạch thẳng phân hủy nhanh hơn polyuretan đi từ diizoxyanat vòng thơm.
4.4.4. Polyanhydrit
Polyanhydrit là nhóm polyme có hai đầu của mắt xích dễ bị thủy phân. Đây là loại vật liệu hấp dẫn do chúng có độ tương thích sinh học rất tốt. Đây cũng là những polyme tạo sợi, rất dễ bị thủy phân. Langer và các cộng sự (1998) đã tổng hợp các polyanhydrit mạch thẳng – mạch vòng để chế tạo vật liệu nhả chậm thuốc. Tốc độ phân hủy của chúng có thể thay đổi nếu ta làm thay đổi mạch chính của polyme. Polyanhydrit mạch thẳng phân hủy trong một vài ngày, trong khi đó polyanhydrit mạch vòng có thể bị phân hủy chậm hơn, thậm chí trong vài năm. Gần đây người ta nêu ra phương pháp chế tạo poly(adipic anhydrite) mạch thẳng bằng cách sử dụng khí ketene.
Phương pháp này có ưu điểm không tạo thành axit axetic là tác nhân làm cho phản ứng xảy ra theo chiều ngược lại. Polyanhydrit có ứng dụng trong sinh học nhờ tính chất tạo sợi của chúng.
Tăng độ dài mạch thẳng giữa các nhóm axit không những làm tăng KLPT mà còn cải thiện đáng kể độ bền thủy phân của chúng.
4.4.5. Poly(amit – enamin)
Sự ăn mòn polyme nền phân hủy sinh học ưa nước như PGA và PLA hoặc copolyme của chúng thông thường xảy ra một cách đồng nhất kéo theo tạo cấu trúc lỏng lẻo hoặc trương nhựa nền.
Điều này làm thay đổi tính chất và giảm giá trị của vật liệu người ta vẫn mong ước có một nền nhựa mà có thể bị ăn mòn dị thể, nghĩa là ăn mòn bề mặt để có thể có được tốc độ nhả thuốc đạt mức gần điểm 0, nếu như sự nhả khuếch tán là bé. Polyme kỵ nước mà vẫn bị phân hủy thủy phân là rất lý tưởng cho mục đích này. Polyanhydrit cho ta những tính chất đầy triển vọng.
Poly(amit – enamin) cũng được điều chế cho mục đích này và nhận thấy dễ bị thủy phân và phân hủy bởi cả enzym và nấm.