Cốt truyện là một trong những yếu tố quan trọng của cấu trúc tác phẩm tự sự. Nếu như trong các loại tác phẩm trữ tình, cốt truyện hầu như không tồn tại vì ở đây tác giả biểu hiện sự diễn biến của tình cảm, tâm trạng. Thì trong tác phẩm tự sự (và cả kịch): cốt truyện là cái khung để giữ cho toàn bộ toà nhà nghệ thuật ngôn từ đứng vững [09; 9]. Cốt truyện được hiểu là cái sườn của tác phẩm, là cái lõi diễn biến của truyện từ khi xảy ra cho đến khi kết thúc. Cốt truyện là cái tóm tắt những điểm chủ yếu, làm thành một câu chuyện rất ngắn với dung lượng ít hơn nhiều bản thân tác phẩm và có thể kể lại được ("truyện " hay "chuyện" khởi nguyên vốn là để kể hoặc để nghe).
Từ xưa đến nay, vấn đề cốt truyện luôn dành được sự quan tâm, thu hút của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Nhìn chung cốt truyện được nhìn nhận dưới những quan điểm không hoàn toàn trùng khít.
Theo Aristote (384-322): Cốt truyện là cơ sở, là linh hồn của bi kịch sau đó mới đến tính cách; bi kịch bắt chước hành động và vì vậy nó phải bắt chước những con người hành động [49; 13]. Điều đó cho thấy Aristote chú ý tới yếu tố hành động của của cốt truyện, qua đó cho phép tác giả bộc lộ và lý giải tính cách nhân vật. Cách định nghĩa này phù hợp với cốt truyện văn học thời kì nở rộ của chủ nghĩa hiện thực, còn trong các tiểu thuyết tâm lý xã hội, truyện vừa và kịch thế kỉ XIX-XX, người ta phát hiện ra sự tiến hóa của các lập trường sống, các quan điểm thế giới cảm xúc nhân vật.
Pospelov lại xem cốt truyện là phương diện hình thức của tác phẩm, là tiến trình sự kiện hình thành từ hành vi của nhân vật, nghĩa là sự vận động không thời gian của cái được miêu tả.
Đô bin lại nhìn dưới góc độ khác. Theo ông, cốt truyện - đó là quan niệm về con người.
Kế thừa và tiếp thu sáng tạo những tư tưởng lí luận của văn học phương Tây, các nhà nghiên cứu và nhà văn ở Việt Nam đưa ra cách hiểu của mình về thuật ngữ cốt truyện.
Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khác Phi: Hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự và kịch... có thể tìm thấy một cốt truyện hai phương diện gắn bó hữu cơ: một mặt, cốt truyện là phương diện bộc lộ tính cách; mặt khác, cốt truyện còn là phương diện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội [45; 80].
Còn Lại Nguyên Ân cho rằng thuật ngữ cốt truyện được hiểu là: Sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình [03; 113].
Qua một số định nghĩa trên, có thể thấy cốt truyện được hiểu ở hai phương diện gắn bó hữu cơ: một mặt cốt truyện là phương diện bộc lộ tính cách nhân vật, nhờ cốt truyện nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách. Mặt khác, cốt truyện là phương diện để tái hiện các xung đột xã hội. Không nên hiểu cốt truyện chỉ đơn giản là tích truyện: Cốt truyện là chuỗi các sự kiện hữu hạn có tính liên tục trước sau, có quan hệ nhân quả hoặc có liên hệ về ý nghĩa, vừa có tác dụng biểu hiện về tính cách, số phận nhân vật, vừa là yếu tố gây hấp dẫn cho người đọc [62; 65]. Trong một tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, cốt truyện luôn giữ vị trí "xương sống", nó liên kết các chi tiết, các sự kiện thành một hệ thống. Bởi thế, GS.Hà Minh Đức đã khẳng định: Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề tư tưởng tác phẩm [19;173].
Tuy các quan niệm khác nhau nhưng nhìn chung các ý kiến đều nhất trí rằng nội hàm của khái niệm cốt truyện bao gồm "Hệ thống hoàn chỉnh các sự kiện hành động chính trong tác phẩm". Cốt truyện là hệ thống các sự kiện, biến cố, cụ thể được trình bày trong tác phẩm với ý đồ nghệ thuật của tác giả như tiến trình và thể hiện qua các phương tiện nghệ thuật. Cốt truyện là nội dung quan trọng và trực tiếp, đồng thời cũng là một phương tiện nghệ thuật của tác phẩm. Chính vì vậy, nói đến cốt truyện người ta thường phân chia thành những cách khác nhau.
Theo cách hiểu truyền thống, cốt truyện là cái lõi của truyện, thể hiện những biến cố quan trọng, đảm bảo sự mạch lạc của diễn biến câu chuyện, gồm các thành phần: Trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào và kết thúc.
Nhưng cốt truyện trong văn xuôi hiện đại đã không còn giữ vị trí độc tôn nữa, nó bị xoá bỏ quan hệ nhân quả, phá huỷ tính hiện thực - những yếu tố không thể thiếu của cốt truyện theo quan niệm truyền thống. Vai trò của cốt truyện mờ nhạt: "Thay vì duy trì tính thống nhất trong trình tự thời gian và nhân quả của chuỗi sự kiện gắn với hành động của nhân vật chính. Thay vì triển khai, tự sự bám vào các cuộc phiêu lưu của các nhân vật, nhà văn lại biến tự sự trở thành cuộc phiêu lưu của cái viết - sự chắp ghép ngẫu nhiên của các mảnh vỡ - những sự kiện phân tán rời rạc" (Trịnh Bá Đĩnh).
Đến văn học đương đại Việt Nam cũng có chuyển biến về nghệ thuật tổ chức cốt truyện, với những cách tân, khám phá mới mẻ, cốt truyện không phải là những yếu tố bắt buộc. Thế kỷ XX yếu tố "Chuyện" ngày càng co hẹp lại, kết cấu cốt truyện mỗi lúc lỏng dần ra. Từ chỗ truyện là một trục chủ đạo và thu hút mọi yếu tố trong tác phẩm quanh nó để có một tác phẩm lý tưởng dần dần vai trò cụ thể và tích cực của nó yếu đi, các sự kiện, biến cố dường như muốn thoát ra vòng ngoài làm các "điện tử tự do". Ở từng tác phẩm cụ thể, trong những tình huống lịch sử cụ thể, mỗi tác giả có thể nhào nặn cốt truyện
trong sáng tác theo chiều hướng khác nhau theo ý đồ riêng của mình. Có tác phẩm không có cốt truyện ("Hai đứa trẻ" - Thạch Lam); có tác phẩm từ đầu đến cuối chỉ xoay quanh các biến cố tâm trạng ("Toả nhị kiều" - Xuân Diệu);
có tác phẩm nhà văn chỉ dựa vào các biến cố, sự kiện rồi sau đó triển khai ra ("Gặp gỡ cuối năm" - Nguyễn Khải) ... Nhưng dù biến hoá thế nào thì nét chủ đạo trong bản thân cốt truyện, tức là "chuyện" sẽ không biến mất một cách tuyệt đối vì nếu không có nó tác phẩm không còn là tác phẩm "tự sự" nữa.
Tác phẩm chính là cái móc để nhà văn treo lên đó cái áo - tác phẩm của mình.