Đồng bào Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và có nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Nổi bật nhất trong văn nghệ dân gian Nùng là lối hát đối giữa Nam và Nữ (Sli) - một lối hát ví, hát giao duyên của thanh niên nam nữ. Đặc điểm của các điệu Sli là diễn xướng tập thể, mỗi bên nam nữ khi hát với nhau thường phải có từ hai người trở lên, hát theo hai bè. Lời ca của các điệu Sli được cấu tạo theo thể thất ngôn tứ tuyệt hoặc thất ngôn bát cú. Mỗi nhóm Nùng có một làn Sli độc đáo: điệu Soong lằn, nhì hào của người Nùng Phàn Sình, Si ới của người Nùng Lòi, Hà lều của người Nùng An, Tả Sli của người Nùng Giang, tiếng Sli giao duyên của thanh niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây ấn tượng sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng.
Then là làn điệu dân ca tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương…Người Nùng rất yêu ca hát, mọi người có thể Sli bất cứ lúc nào và ở đâu mỗi khi rãnh rỗi.
Những cuộc Sli thường kết thúc bằng sự trao đổi vật kỷ niệm như vòng tay, nhẫn, khăn mặt, túi…Ngoài hát đối đáp người Nùng còn tổ chức các đội múa sư tử, một hình thức sinh hoạt nghệ thuật lành mạnh và là môn thể thao vui khỏe được thanh niên ưu thích. Hội múa sư tử còn là dịp các trai bản luyện tập võ thuật, để bảo vệ quê hương đất nước khi có giặc giã, trộm cướp. Ngoài ra còn có thơ cổ phong, cổ lẩu, truyện cổ tích, truyện cười, ngụ ngôn rất phong phú. Cổ lẩu là những bài thơ trong đám cưới dùng để chúc tụng nhau. Nghệ thuật âm nhạc của người Nùng khá phát triển nhưng nhạc cụ thì lại khá nghèo nàn, hầu như chỉ là các loại thuộc bộ gõ đánh. Múa cũng rất nghèo nàn, chủ yếu được dùng trong tôn giáo tín ngưỡng.
Trong các dịp lễ tết, hội lồng tồng, chợ xuân,…có các trò chơi gieo đúm, đánh cầu lông, đánh quay, kéo co,…
Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là hội
"Lùng tùng" (còn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ chức vào tháng giêng hàng năm.
Hát Sli - một làn điệu đặc trưng của dân tộc Nùng: Hát Sli (vả Sli) là một làn điệu đặc trưng của dân tộc Nùng. Có thể kể đến một số kiểu loại chính như: Người Nùng Cháo có Sli Slình làng, nguời Nùng Giang có Sli Giang, người Nùng Phàn slình có Sli bốc, sli Phàn slình… Thực chất Sli (vả Sli) là một hình thức hát thơ (kiểu như Phong Slư của dân tộc Tày nhưng cơ bản khác nhau về mặt tính chất). Sli của đồng bào Nùng được coi là một thể loại trữ tình dùng trong các ngày hội, ngày chợ, ngày cưới, ngày vào nhà mới… Trước đây, đã là người Nùng, hầu hết ai cũng biết hát Sli, yêu thích Sli bởi ngoài việc ví, đối … lời hát Sli còn được coi như tiếng hát giao duyên. Hát Sli thể hiện sự ứng đối tài hoa của mỗi người với những lời Sli ví von, bóng bẩy, tinh nghịch, xa xôi, ẩn chứa rất nhiều hàm ý… Đối với Sli giao duyên, thường do một đôi trai gái hoặc một vài đôi trai gái thể hiện theo lối đối đáp. Bao giờ cũng có người đứng ra Sli trước (kiểu mời gọi lĩnh xướng). Người hát trước thường là người có giọng vang, trong và phải có khả năng ứng đối khéo léo, tài tình và nhanh nhậy. Khi bên này vừa ngừng tiếng Sli (hỏi) thì bên kia cũng phải có người nhanh chóng cất lời Sli để đáp lại. Lời Sli đôi khi không chỉ bao hàm nội dung mượt mà, tế nhị của chuyện tình cảm ấm nồng, đằm thắm của bao đôi trai gái mà còn có cả muôn mặt của đời sống như các hiện tượng tự nhiên, các mốc thời gian cùng sự kiện nhân vật và lịch sử… đôi khi có cả những lời chào mời sang trọng, những lời thách đố kiêu ngạo, đáng yêu… Về hình thức thể loại, nhìn chung Sli có những bài thơ có độ dài ngắn khác nhau. Có bài Sli chỉ khoảng 4 đến 8 câu, lại có những bài Sli dài đến hàng trăm câu, câu thơ thường chỉ có từ 5 đến 7 chữ.
Vần của bài thơ được xác định bởi vần của chữ cuối cùng câu đầu tiên của bài thơ.
Các chữ cuối cùng của các câu chẵn tiếp theo được gieo gối vần trên cơ sở hiệp vần với chữ cuối cùng câu đầu tiên. Thông thường vần trong bài Sli đều là thanh bằng.
Chẳng hạn bài Hội chợ- Sli Phàn Slình ở hội chợ Xuân Dương(Na Rì): Vằn này bươn sham háng nhì hả Dỉ noọng quẩy sẩy mại cần mà Shíp nhì bươn pi vằn toọc Đếch kế Sli cốc tèo mà lầy… (Hôm nay ngày hội 25 tháng 3 Anh em ở gần xa về dự Cả năm chỉ có một ngày như thế Trẻ già, trai gái tới cùng vui…) Có thể nói, Sli là một làn điệu mang đậm dấu ấn bản sắc của đồng bào dân tộc Nùng. Đến nay, người biết hát Sli không nhiều, nhất là Sli theo đúng nguyên bản ngày xưa. Đây chính là nét văn hóa đặc sắc rất cần được bảo tồn và phát huy.
Hát soong hao – Nét văn hoá đẹp của dân tộc Nùng: Tiếng Nùng, soong hao có nghĩa là hai ta, đôi ta. Hát soong hao là hình thức sinh hoạt dân ca trữ tình đối đáp nam nữ của các thế hệ thanh niên dân tộc Nùng ở huyện Lục Ngạn và một phần ở các huyện Sơn Động, Yên Thế, Lục Nam. Hát soong hao được tiến hành chủ yếu vào mùa xuân, từ những phiên chợ đầu năm đến những phiên chợ cuối cùng của tháng ba âm lịch. Hát soong hao ở Lục Ngạn đông vui nhất vào những ngày mùng tám tháng giêng, mời tám tháng hai âm lịch, trùng vào ngày hội Từ Hả và hội chợ Chũ. Ngày rằm tháng tám âm lịch đi chợ Biển Động, trai gái dân tộc Nùng rủ nhau đi từng đoàn. Họ vào chợ chỉ mua bán qua loa rồi kéo nhau vào các nhà hàng ăn uống và hát với nhau. Nam ngồi một dãy, nữ ngồi một dãy, đối diện nhau mà hát.
Trời ngả về chiều họ mới đứng dậy ra về, cuộc hát kéo dài theo con đường về bản xa và nhiều đôi đã thành vợ thành chồng sau đó.
Lệ buộc cót, nét văn hóa truyền thống của người Nùng: Mỗi một vùng một dân tộc đều có nét văn hoá truyền thống riêng, người Nùng Bắc Kạn họ sống xen với các dân tộc khác. Họ có nét văn hoá riêng rất độc đáo, tạo ra truyền thống tốt đẹp. Một trong những truyền thống là lệ buộc cót (tiếng Tày, Nùng gọi là lẹ lảm
dảo), là một phần nghi thức trong lễ Kỳ Yên của người Tày, Nùng. Trong lễ Kỳ Yên có nghi thức “Pủ lường pủ váng” có nghĩa là (đắp bồ đắp cót). Cót ở đây tượng trưng cho cót gạo nuôi dưỡng người già, cũng là “cót hộ mệnh” được con cháu bồi đắp tiếp, cầu cho người già được sống lâu, khoẻ mạnh “thực túc sức cường”. Ở lệ buộc cót gồm có: Một cái cót hình trụ tròn, rỗng trên dưới, để ở giữa đựng gạo, một cái cân tiểu ly mang ý nghĩa trường thọ, sống lâu, một ngọn chuối non, một ngọn dâu tằm non tượng trưng cho sự trẻ trung, tươi tắn. Một cây đèn, một cây chuối non, một đoạn tre non cả rễ. Tất cả đều thể hiện cho số mệnh sống lâu, trường tồn.
Những ý nghĩa đó đã thể hiện rất rõ ở lời lẽ của Bụt(then). Trong lễ buộc cót khi Bụt khởi lễ đắp cót hộ mệnh thì các con cháu, họ hàng... những người trong gia đình sẽ xúc gạo ở cái thúng cạnh đó cho đầy ắp. Có một người là nam giới khoẻ mạnh, đạo đức tốt phải lên tầng gác buộc cót. Người này sẽ lấy cái cót tượng trưng ở dậu gạo và ngọn dâu, ngọn chuối non để ở trong cót đặt lên xà nhà. Sau lễ buộc cót, con cháu của người được làm lễ sẽ đem cây chuối non và đoạn tre non có cả rễ ra vườn trồngcho cây sinh sôi phát triển. Lễ buộc cót đã thể hiện sự kính trọng, lòng yêu thương và sự quan tâm của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Đây là hình thức mừng thọ của người dân tộc Nùng. “lễ buộc cót” đã mang đậm đà bản sắc dân tộc, đã thể hiện truyền thống tốt đẹp của người dân tộc nùng.
Hát Cỏ Lẩu – nét văn hoá đặc sắc của người Nùng: Đây là một loại hình thơ ca dân gian khá phổ biến của người Nùng Phàn Slình, Nùng Cháo, Nùng Giang. Đó là những câu hát được dùng trong đám cưới của người Nùng. Những bài hát này được sử dụng tương tự như hát quan làng (thơ lẩu) của người Tày. Nội dung chủ yếu là kể chuyện đám cưới. Kể về một trình diễn trong đám cưới của người Nùng bắt đầu từ các bước ăn hỏi, xin số mệnh để so tuổi, báo mệnh hợp, lễ sêu tết cho đến lễ báo cưới, lễ cưới. Cũng như bao dân tộc khác, ngày cưới là ngày trọng đại, vui nhất trong đời mỗi người, cái vui ấy chan hoà trong mọi người ở mọi lứa tuổi.
Vì vậy, nên phải có những lời ca, tiếng hát phải có Cỏ lẩu. Dẫu đám cưới là nơi ồn ào, náo nhiệt đông vui nhưng nếu lời ca của Cỏ lẩu cất lên thì tất cả đều chú ý lắng nghe. Về cơ bản, Cỏ lẩu có hai hình thức diễn xướng giữa hai họ nhà trai và nhà gái, hai là diễn xướng đối đáp giữa bạn bè cô dâu và chú rể. Cũng như đám cưới người Tày, kể từ khi họ nhà trai đến cổng nhà cô dâu, muốn bày tỏ điều gì đều phải thông qua Cỏ lẩu. Từ việc xin vào cổng, xin lên cầu thang, xin vào nhà, xin chỗ ngồi, xin cho chú rể vái lậy tổ tiên, ông bà, xin cho chú rể đi mời trầu thuốc…cho đến xin cho chú rể vào buồng đón cô dâu, xin cho chú rể được cùng cô dâu trở về nhà trai…đó là Cỏ lẩu gắn liền với nghi lễ. Bên cạnh đó, Cỏ lẩu cũng giúp bạn bè cô dâu chú rể tìm bạn và kết duyên. Nhìn chung, những bài Cỏ lẩu hết sức chân thực, cụ thể và sinh động về hệ thống phong tục và nghi lễ trong đám cưới. Trong đó nhiều nhất ở gia đình đưa đón dâu. Ngoài ra, Cỏ lẩu còn được coi là hệ thống bài ca có tính giáo huấn cao. Nó dạy cho con người sống tốt hơn, hướng thiện hơn, dạy cho con dâu, con rể biết thêm nhiều điều ứng xử trong cuộc sống mới.
2.7. Hôn nhân và gia đình của người Nùng