Vai trò của phát triển hệ thống bán lẻ đối với sự phát triển kinh tế-xã hội

Một phần của tài liệu Phát triển hệ thống bán lẻ Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế (Trang 54 - 60)

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG BÁN LẺ THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

3.1. Một số khái niệm cơ bản, vai trò, nội dung và tiêu chí đánh giá sự phát triển của hệ thống bán lẻ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

3.1.2. Vai trò của phát triển hệ thống bán lẻ đối với sự phát triển kinh tế-xã hội

Trong tất cả các nền kinh tế thế giới, lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh vực bán lẻ nói riêng chiếm một phần quan trọng trong các hoạt động kinh tế. Tại nhiều nền kinh tế, sự đóng góp của hệ thống phân phối nói chung và nhất là lĩnh vực bán lẻ chỉ đứng thứ hai sau lĩnh vực chế tạo về mức đóng góp GDP và vượt trên các lĩnh vực khác như nông nghiệp, khai khoáng, vận tải, viễn thông và dịch vụ tài chính. Ở Việt Nam, lĩnh vực phân phối hàng hóa, dịch vụ đóng góp 13 - 14% vào tổng GDP của nền kinh tế từ sau năm 2004 đến nay [Nguyễn Thanh Bình, 2012, tr.25]. Sở dĩ hệ thống

phân phối và HTBL có vai trò đặc biệt trong nền kinh tế chính là bởi đây là cầu nối sống còn và đóng vai trò gắn kết giữa nhà sản xuất với lợi ích của người tiêu dùng.

Việc phát triển HTBL có nhiều vai trò đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, tiêu biểu phải kể đến các vai trò chủ yếu sau:

3.1.2.1. Thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển

Phân phối là một khâu trong quá trình tái sản xuất mà trong đó phân phối và trao đổi đóng vai trò là khâu trung gian nối sản xuất với tiêu dùng. Nếu quá trình phân phối tiến bộ, phù hợp sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất, phân phối phát triển và ngược lại, quan hệ phân phối không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Vì lẽ đó mà phân phối hàng hóa nói chung và HTBL nói riêng có vai trò vừa phục vụ tiêu dùng, vừa thúc đẩy sản xuất làm cho nền sản xuất hàng hóa phát triển. Hay nói một cách khác, HTBL góp phần tạo động lực thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển và nâng cao mức hưởng thụ của người tiêu dùng.

Ngày nay, với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa, hầu hết các nhà sản xuất khi muốn đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng đều cung cấp sản phẩm của mình cho thị trường thông qua các trung gian bán lẻ. Những trung gian bản lẻ này hợp thành một hệ thống kênh phân phối bán lẻ. Các kênh phân phối bán lẻ thực chất là tập hợp những cá nhân hay những cơ sở kinh doanh phụ thuộc lẫn nhau liên quan đến quá trình tạo ra và chuyển sản phẩm hay dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Dưới sự hỗ trợ của các trung gian phân phối bán lẻ này mà quá trình đưa sản phẩm từ tay nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng trở nên thuận tiện hơn, khiến cho các khâu của quá trình tái sản xuất diễn ra nhanh chóng, từ đó thúc đẩy nhà sản xuất phát triển sản xuất và nâng cao năng suất lao động.

Có nhiều lý do để những người sản xuất chuyển giao một phần công việc tiêu thụ sản phẩm cho những người trung gian bán lẻ. Việc chuyển giao này cũng có nghĩa là từ bỏ một số quyền kiểm soát đối với sản phẩm được bán như thế nào và bán cho ai.

Tuy nhiên, việc bán sản phẩm của mình qua trung gian đem lại cho nhà sản xuất nhiều lợi thế như: Một là, nhiều nhà sản xuất không có đủ nguồn lực tài chính để phân phối trực tiếp sản phẩm của mình đến tận người tiêu dùng cuối cùng, vì việc phân phối trực tiếp đòi hỏi đầu tư rất nhiều về tài chính và nhân lực; Hai là, khi sử dụng các trung

gian phân phối, khối lượng hàng hóa bán ra sẽ tăng hơn do đảm bảo được việc phân phối rộng khắp và đưa được sản phẩm đến các thị trường mục tiêu một cách nhanh chóng; Ba là, việc marketing trực tiếp có thể đòi hỏi nhiều nhà sản xuất trở thành người trung gian bán các sản phẩm bổ sung của những nhà sản xuất khác để đạt được việc tiết kiệm nhờ phân phối đại trà. Ngay cả khi người sản xuất có đủ điều kiện để thiết lập riêng kênh phân phối bán lẻ của mình, nhưng có khả năng đạt nhiều lợi nhuận hơn bằng cách tăng thêm vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh chính của mình, thì họ vẫn lựa chọn cách phân phối sản phẩm thông qua các trung gian bán lẻ; Bốn là, nhờ quan hệ rộng rãi với người tiêu dùng nên kinh nghiệm do chuyên môn hóa được tích lũy nhiều hơn và qui mô hoạt động ngày càng lớn hơn, các trung gian phân phối sẽ làm lợi cho nhà sản xuất nhiều hơn là khi những người sản xuất tự đảm nhận việc phân phối sản phẩm của chính mình; Năm là, sự xuất hiện các trung gian làm giảm bớt các giao dịch trong trao đổi xét trên phạm vi toàn xã hội.

Nhìn chung, HTBL hàng hoá ngày càng giữ vai trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất mở rộng, bởi nó đảm bảo một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất là khâu tiêu thụ hàng hóa. Nhờ có HTBL mà người tiêu dùng có thể dễ dàng tiếp cận được đúng chủng loại hàng hoá mà họ cần, đúng thời gian, tại một địa điểm và ở một mức giá mà người tiêu dùng chấp nhận. Nhờ có HTBL, nhà sản xuất có thể dễ dàng hơn trong việc xác định hướng vào nhu cầu thị trường, thúc đẩy phương thức kinh doanh theo nhu cầu của nền kinh tế thị trường, trên cơ sở đó mà tăng cường thương mại hàng hoá và phát triển thị trường cho các ngành kinh tế và sản phẩm có lợi thế, cũng như mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh từ đó thúc đẩy cho nền sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển hơn nữa.

3.1.2.2.Giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa nền sản xuất hàng hóa lớn và nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng

Trong nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hoá thường xuất hiện mâu thuẫn cơ bản giữa một nền sản xuất hàng hoá lớn và nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Sở dĩ có mâu thuẫn đó là do vô số người tiêu dùng khác nhau lại có những nhu cầu, sở thích khác nhau. Khi xã hội càng phát triển thì sự đa dạng của những nhu cầu này ngày càng tăng. Đồng thời, các DN phải tăng quy mô sản xuất để tối đa hoá lợi nhuận.

Chính quá trình này đã nảy sinh ra các mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phân phối nói chung và HTBL nói riêng, cụ thể là:

Mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn giữa sản xuất khối lượng lớn, chuyên môn hoá sâu với nhu cầu tiêu dùng theo khối lượng nhỏ và đa dạng [Lê Trịnh Minh Châu, 2004, tr.22]. Sở dĩ tồn tại mâu thuẫn này là do thị trường là một tập hợp vô số những người tiêu dùng và mỗi cá nhân người tiêu dùng lại có những nhu cầu hoàn toàn khác biệt. Bên cạnh đó, xã hội ngày càng phát triển, thu nhập của người dân ngày càng tăng lên khiến cho nhu cầu tiêu dùng của mỗi cá nhân tuy với số lượng không nhiều nhưng lại ngày càng đa dạng, phong phú. Trong khi đó đối với các nhà sản xuất, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như để bảo đảm lợi ích kinh doanh họ phải không ngừng mở rộng sản xuất, nâng cao năng suất lao động và vì vậy sẽ sản xuất ra khối lượng một sản phẩm ngày càng nhiều với quy mô lớn. Vì vậy, hệ thống phân phối nói chung và HTBL nói riêng đã góp phần giải quyết mâu thuẫn thứ nhất này, một mặt giúp các nhà sản xuất tiếp cận được dễ dàng với nhiều người tiêu dùng cuối cùng hơn, mặt khác giúp người tiêu dùng có thêm nhiều thông tin để lựa chọn sản phẩm hơn.

Mâu thuẫn thứ hai là sự khác biệt về không gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Quá trình sản xuất chỉ diễn ra ở một vài địa điểm nhất định, trong khi người tiêu dùng lại ở khắp nơi. Nhằm giúp cho sản phẩm có thể đến được tay người tiêu dùng cuối cùng, HTBL ra đời với vai trò là trung gian phân phối, nối các nhà sản xuất với người tiêu dùng cuối cùng. Chính sự xuất hiện của HTBL với nhiều kênh phân phối (trực tiếp, gián tiếp với nhiều cấp độ) đã giúp giảm tổng số các trao đổi, giao dịch và tạo điều kiện vận chuyển sản phẩm với khối lượng lớn ở cự ly dài, nhờ đó sẽ giảm chi phí vận chuyển, hạ giá thành sản phẩm, từ đó hàng hóa dễ dàng đến với người tiêu dùng cuối cùng hơn [Lê Trịnh Minh Châu, 2004, tr.22].

Mâu thuẫn thứ ba là sự khác biệt về thời gian do thời gian sản xuất và thời gian tiêu dùng không trùng khớp. Quá trình sản xuất đôi khi không xảy ra cùng thời gian với nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy, HTBL sẽ giúp giải quyết mâu thuẫn này thông qua các kênh phân phối bán lẻ và dự trữ hàng hóa nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng [Lê Trịnh Minh Châu, 2004, tr.22].

Ngoài ba mâu thuẫn cơ bản về sự khác biệt giữa số lượng, không gian, thời gian giữa khâu sản xuất và khâu tiêu dùng còn tồn tại một số khác biệt và cũng tạo ra sự mâu thuẫn đó là sự khác biệt về chủng loại, sự khác biệt về thông tin, sự khác biệt về giá trị, sự khác biệt về sở hữu…Và HTBL đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự việc giải quyết những mâu thuẫn vốn là cố hữu giữa nền sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển và nhu cầu đa dạng phong phú của người tiêu dùng.

3.1.2.3. Cung ứng đầy đủ và kịp thời hàng hóa đến người tiêu dùng

Hệ thống phân phối hàng hóa nói chung và HTBL nói riêng đang ngày càng thể hiện rõ vai trò là động lực thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển và đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Thông qua hệ thông bán lẻ, người tiêu dùng được cung ứng đầy đủ, kịp thời và đúng chủng loại hàng hóa mà họ cần, đúng thời gian, tại một địa điểm và ở mức giá mà người tiêu dùng chấp nhận. Khi nhu cầu của người tiêu dùng biến đổi không ngừng, HTBL có những thông tin phản hồi từ người tiêu dùng tới nhà sản xuất để đặt hàng đáp ứng những thay đổi đó. Đồng thời, thông qua việc phân phối hàng hóa tới tay người tiêu dùng, các kênh bán lẻ cũng có thể tác động tới việc tạo nhu cầu mới cho người tiêu dùng bằng việc bổ sung vào tập hợp hàng hóa của mình những sản phẩm mới, tạo nhiều sự lựa chọn khác nhau cho người tiêu dùng. Từ quá trình phân phối hàng hóa đó, các trung gian bán lẻ sẽ nắm bắt được nhu cầu thực tế của thị trường cả về sản phẩm, thời gian, không gian nên có thể truyền tải những thông tin cần thiết về nhu cầu thị trường cho những người sản xuất và cung ứng hàng hóa để điều chỉnh theo những điều kiện của thị trường.

Hoạt động bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong điều tiết hàng hoá. Quá trình phân phối hàng hóa qua HTBL giúp điều tiết hàng hoá từ nơi sản xuất tới người tiêu dùng một cách đầy đủ và kịp thời. HTBL giúp điều tiết hàng hoá ở tất cả các vùng miền từ thành phố, nông thôn, vùng sâu vùng xa bất kể nơi đâu có nhu cầu. Hoạt động bán lẻ phát triển nó đảm bảo cung cấp hàng hoá công bằng cho tất cả người tiêu dùng ở khắp nơi.

3.1.2.4. Tạo lập và nâng cao sức cạnh tranh của DN và của nền kinh tế

Tại Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã định nghĩa về năng lực cạnh tranh cho cả DN, ngành và quốc

gia như sau: “Năng lực cạnh tranh là khả năng của các DN, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.

Như vậy, năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành ba cấp độ: (1) Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia, (2) Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành/sản phẩm, (3) Năng lực cạnh tranh của DN. Ba cấp độ này có mối liên quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Như vậy, tổng hợp năng lực cạnh tranh của DN của một nước tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Khi năng lực cạnh tranh và sản phẩm của DN bị hạn chế thì cũng làm giảm năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và ngược lại.

Một trong những cách thức nhằm giúp các DN có thể tạo lập và nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình chính là xây dựng và phát triển kênh phân phối hàng hóa bán lẻ. Khi DN tiến hành tổ chức và tham gia vào HTBL hàng hóa điều đó cũng đồng nghĩa với việc DN đó đang chủ động xây dựng các liên kết nhằm đảm bảo thực hiện phân công chuyên môn hóa và hợp tác trong dây chuyền tạo ra giá trị gia tăng của các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc gia. Quá trình này sẽ giúp các DN phát huy được những lợi thế sẵn có của mình và giảm thiểu được các chi phí bỏ ra từ đó sẽ giúp DN có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường.

Một điều dễ nhận thấy là khi các DN tham gia vào HTBL, sự tồn tại của HTBL với những liên kết bên trong hệ thống sẽ giúp các DN sản xuất dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, tiếp cận được các công nghệ mới hiện đại, bảo đảm nguồn cung ứng hoặc nhu cầu ổn định, nâng cao quyền thương lượng tăng cường khả năng khác biệt hóa sản phẩm và dịch vụ so với đối thủ cạnh tranh…. Tất cả những lợi thế này sẽ giúp các DN nâng cao được lợi thế cạnh tranh trên thị trường không chỉ trong nước mà còn cả thị trường quốc tế.

Chính vì vậy, các quyết định về hệ thống phân phối bán lẻ hàng hóa đang trở thành một trong những chiến lược cạnh tranh hàng đầu của các DN, là một phương tiện hữu hiệu giúp các DN dễ dàng tiếp cận thị trường và tiếp cận người tiêu dùng cuối cùng. Nhìn chung muốn tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường thì ngoài sản phẩm tốt ra công ty cần phải phối hợp nó với các biến số giá, phân phối và xúc tiến.

Sự kết hợp hài hoà giữa 4 biến số sản phẩm, giá, phân phối và xúc tiến sẽ giúp DN có được một sản phẩm có sức cạnh tranh tốt trên thị trường. Muốn nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công ty trên thị trường, công ty có thể tìm giải pháp nâng cao hiệu

quả của một trong bốn biến số trên đặc biệt là khâu phân phối sản phẩm. Để có một hệ thống kênh phân phối tốt thì các DN sản xuất cần phải có nhiều thông tin cần thiết về thị trường mà công ty tham gia cũng như nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng của thị trường để từ đó có các chương trình xúc tiến nhằm thu hút được người tiêu dùng trên thị trường. Và khi các DN phát triển được một hệ thống phân phối hiệu quả cũng như tham gia vào các liên kết trong hệ thống phân phối này sẽ giúp các DN dễ dàng tiêu thụ sản phẩm cũng như có chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay đòi hỏi mỗi nhà sản xuất phải luôn không ngừng nâng cao vị thế và thương hiệu của mình trên thị trường. Việc các DN nâng cao được năng lực cạnh tranh của chính mình cũng đồng nghĩa với việc sẽ góp một phần nâng cao được năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia.

Như vậy, HTBL có chức năng, vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đây là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Nếu thực hiện được tốt các chức năng, vai trò trên, HTBL sẽ góp phần không nhỏ trong quá trình thúc đẩy nền kinh tế nói chung, lĩnh vực thương mại nói riêng phát triển.

Một phần của tài liệu Phát triển hệ thống bán lẻ Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế (Trang 54 - 60)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(204 trang)