PHẦN II NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT
2.3. Samot (mảnh nung) và mộc hỏng
Là phế phẩm được nghiền lại thêm vào phối liệu có tác dụng làm giảm co rút đồng thời tận dụng lại một phần phế phẩm nhằm tiết kiệm.
Ngoài ra còn sử dụng thêm phụ gia như thủy tinh lỏng để điều chỉnh tỷ trọng và độ nhớt của huyền phù xương.
Mộc Hỏng
II. THÀNH PHẦN PHỐI LIỆU XƯƠNG SẢN PHẨM SỨ VỆ SINH
Thành phần phối liệu tính toán phải đảm bảo cho đạt được các tính chất của hồ đúc rót và nhận được các tính chất cơ lý cần thiết của xương sản phẩm đó là:
Cho khả năng tách khuôn của sản phẩm đúc rót trong thời gian đúc rót.
Hệ số giãn nở nhiệt của xương và men phải tương đối bằng nhau.
Sản phẩm đạt được độ bền cao (sau khi tháo khuôn) và cho phép gian công nó.
Độ co của sản phẩm khi đúc rót nằm trong giới hạn cho phép bởi khi co ngót lớn thì trong khuôn sản phẩm mộc sẽ bị nứt còn khi co ngót ít thì khó lấy sản phẩm mộc ra khỏi khuôn.
Đối với phối liệu sứ thì độ co ngót cho phép nằm trong khoảng 12-14%.
Đảm bảo tính chất hồ đúc rót và các tính chất cơ lý cần thiết của xương sản phẩm.
Khi chuẩn bị hồ thì sử dụng loại phế thải của phân xưởng đúc rót với hàm lượng 10-30% thể tích hồ để tiết kiệm nguyên liệu. Khi dùng đất sét ít dẻo hơn một phần cao lanh làm giàu theo phương pháp khô thì quá trình bám khuôn tạo xương mộc có khả năng thực hiện nhanh hơn.
Phối liệu sứ nhiều cấu tử cho khả năng bù trừ thiếu sót tính chất của một loại cấu tử và giữ được thành phần tính chất của phối liệu (trong giới hạn cho phép). Thành phần thực tế của phối liệu có thể dao động trong một giới hạn rộng lớn.
Khi giảm hàm lượng các hàm lượng các cấu tử đất sét trong phối liệu và tăng hàm lượng chất phụ gia gầy trong phối liệu sẽ làm tăng khả năng lọc của phối liệu, các tính chất đúc rót của hồ được cải thiện nhất là khi đúc rót trên băng truyền.
Quá trình chuyển từ phối liệu sứ và bán sứ được đặc trưng bởi sự thay đổi thành phần của chúng. Lượng cát thạch anh đưa vào trong phối liệu sứ khoảng 12-18%. Hàm lượng pécmatít trong phối liệu sứ khoảng 9-13%. Tổng hàm lượng các ôxít kiềm tăng từ 0,8-0,9% đến 2,2-2,3%. Trong phối liệu sứ người ta còn tăng lượng các nguyên liệu penspát và tăng độ nghiền mịn của phối liệu. Hàm lượng các nguyên liệu dẻo (đất sét và cao lanh) trong phối liệu sứ là 48-52% các nguyên liệu không dẻo khoảng 50-52%. Tuỳ theo nhiệt độ nung người ta đưa thêm 18-25% chất trợ dung (tính theo lượng penspát tinh khiết) nghĩa là ứng ứng với 3,5-4% hàm lượng (Na2O, K2O) đối với sứ có nhiệt độ nung từ 1230oC-1250oC và 5-6% đối với sứ nung ở nhiệt độ 1178oC-1180oC. Khi lựa chọn thành phần phối liệu người ta cần tính tới các yếu tố sau.
+ Khi tăng hàm lượng các vật liệu gầy trong phối liệu tính chất lọc hồ tăng, cong khi tăng dộ phân tán của vật liệu dẻo (bao gồm các hạt kích thước không lớn hơn 0,5
à
m thì tính chât lọc hồ giảm, thời gian bám khuôn và tháo khuôn của xương mộc tăng.
+ Tăng hàm lượng các chất làm gầy thì độ bền của sản phẩm đúc rót giảm, khả năng hình thành các vết nứt khi tháo khuôn tăng và khả năng biến dạng (bị xệ xuống) sau khi lấy ra khỏi khuôn cũng tăng lên.
+ Tăn chất điện giảI làm cho sản phẩm mộc bị dòn và làm xấu tính chất đúc rót của hồ khi gia công nó (xuất hiện các điểm thừa)
+ Tăng độ ẩm của hồ, tương ứng giảm lượng chất điện giải thì độ dẻo và tính chất hồ đúc rót của hồ sẽ tăng.
=>Khi lựa chọn thành phần phối liệu cũng cần tính đến phương pháp chế tạo sản phẩm (trên bệ hay trên băng truyền), thanh phần phối liệu hợp lý để đúc rót trên bằng truyền và đúc rót trên bệ (trên giá) được giới thiệu bằng hàm lượng các vật liệu sau (%).
Vật liệu Đúc rót băng truyền Đúc rót trên bệ
Đất sét(tính theo vật chất sét) Cao lanh (tính theo vật chất sét) Cát quắc
Penspát
Mảnh vỡ xương sản phẩm
19-22 19-30 28-32 12-14 11-15
22-26 30-31 28-32 10-12 5-10 III. NGUYÊN LIỆU ĐỂ SẢN XUẤT MEN CHO SỨ VỆ SINH
Men là lớp thuỷ tinh mỏng có chiều dày từ 0,1-0,3mm hình thành trên bề mặt của sản phẩm gốm sứ do kết quả tráng trên bề mặt chúng các chất đặc biệt, dính chặt trên bề mặt sản phẩm bằng cách nung ở nhiệt độ cao. Men giữ cho sản phẩm khỏi bị tác dụng của axít, kiềm, tăng tính chống them và tính chất khác đồng thời còn trang trí bề mặt sản phẩm.
Men dùng cho sứ vệ sinh xây dựng phải có độ bền hoá học và độ cứng không nhỏ hơn 6 đơng vị theo thang vật chất Moos. Chất lượng men phụ thuộc vào tính chất của hồ men và phương pháp tráng men.
Tính chất của huyền phù men được điều chình bằng cách cho thêm các chất keo tụ (Natri clorua, axít clohidríc và các chất khác) hoặc các chất pha loãng (Thuỷ tinh lỏng, xôđa) đất sét và cao lanh cho thêm vào sẽ làm giảm sự phân lớp của lớp huyền phù men.
Nguyên liệu men
Thông Số nguyên Liệu Men Nguyên liệu để chế tạo men là đất sét, cao lanh, cát trường thạch, pécmatít, đá phấn, đá vôi. Các khoáng chất hoạt hoá như cácbonat Canxi, Bari.
Để tráng men sản phẩm sứ vệ sinh xây dựng người ta sử dụng men nguyên liệu, men Frít và bán Frít. Trong đó nguên liệu và bán Frít được sử dụng nhiều, các men nguyên liệu và men trường thạch không Frít được sử dụng để tráng các sản phẩm từ phối liệu sứ và bán sứ.
Người ta dùng các men Frít để tráng các sản phẩm từ phối liệu sành.
Sự thay thế oxít Thiếc trong men bằng Ziếc côn sẽ làm tăng độ trắng cho sản phẩm, làm giảm giá thành sản phẩm.
Cho thêm vào men 0,5-1% Glyxêrin hoặc KMU (0,12-0,2%) sẽ làm tăng khả năng phủ của men làm giảm xu hướng xuất hiện chảy đọng tạo thành dòng (khi tráng men bằng phương pháp nhúng) cải thiện dộ bám của men với xương mộc.
Việc sử dụng các men đục cho phép cải thiện hình dạng bên ngoài của sản phẩm, mở rộng khả năng tận dụng nguên liệu của công nghiệp sản xuất nhờ sủ dụng nguyện liệu có chứa tạp chất nhuộm màu.
Với vai trò tạo đục trong men, người ta sử dụng ZrO2 các men Ziếccôn có sự ổn định lớn với các thay đổi chất lượng của men thường là: rẻ hơn, độ chảy tràn tốt và bóng. Do đó hiện nay có thể sử dụng chúng thay thế hoàn toàn các men khác. Tuy nhiên chất lượng tạo đục cao chỉ có thể đạt được khi kích thước hạt ziếccôn không vượt quá 1-5
à
m. Bởi vì chỉ khi đó ziếccôn mới có tác dụng gây đục do hiện tượng tái kết dính. Để tăng độ trắng của men đưa vào trong phôi liệu của chúng các chất phị gia làm tăng độ trắng của men
Khi sản xuất các sản phẩm vệ sinh xây dựng có màu thì các chất màu đưa vào trong quá trình nghiền ở máy nghiền bi ướt
Yêu cầu đối với men phun
Thành phần của men gây ảnh hưởng đến màu và sắc thái của sản phẩm men. Men ziếccôn làm cho màu nhuộm của sản phẩm trang nhã hơn. Để tạo ra sản phẩm màu đen , màu xanh them màu nâu xẫm nên đưa chất nhuộm màu vào men penspát trong suốt không chứa ziếccôn, màu đồng đều hơn đặc biệt khi chất màu khôn lớn đạt được khi phủ sản phẩm bằng men ziếccôn.