Từ lâu người ta đã biết người phụ nữ chỉ có thể thụ thai được trong một số ngày của vòng kinh. Đó là những ngày phóng noãn (thường gọi là rụng trứng). Ở những người phụ nữ bình thường thời kỳ noãn trưởng thành, giai đoạn sau trên 37 độ một chút. Phóng noãn xảy ra vào ngày cuối của giai đoạn nhiệt độ thấp. Vì vậy muốn tránh thụ thai, cần tránh 2-3 ngày kể từ ngày thân nhiệt bắt đầu tăng….
Phương pháp đo thân nhiệt cơ sở khẳng định có phỏng đoán sau khi đã tăng thân nhiệt và xác định những ngày không thể thụ thai sau phóng noãn nhưng không xác định được khi nào giai đoạn để thụ thai bắt đầu hoặc những ngày nào trước phóng noãn là an toàn để có thể giao hợp.
– Quan sát những thay đổi ở cổ tử cung: những thay đổi về vị trí và mật độ của cổ tử cung. Khi để thụ thai cổ tử cung trở nên mềm và cao hơn. Lỗ cổ tử cung hé mở. Khi niêm dịch cổ tử cung chuyển từ ướt sang khô, cổ tử cung trở nên cứng chắc, thấp xuống và đóng là thời kỳ an toàn.
Những thay đổi ở cổ tử cung không đủ để nói lên những ngày dễ thụ thai bắt đầu và kết thúc hoặc an toàn hay không an toàn cho việc giao hợp.
Tuy nhiên, cũng là một phương pháp bổ trợ có giá trị cho việc đánh giá niêm dịch cổ tử cung và theo dõi thân nhiệt cơ sở.
Ba dấu hiệu nói trên đều có thể theo dõi được đơn giản, chỉ mất vài phút mỗi ngày.
KHÔNG CHO PHÓNG NOÃN HAY ỨC CHẾ SỰ PHÓNG NOÃN
Là phương pháp tránh thai sử dụng hóc–môn. Phương pháp này có hiệu quả cao nhưng tốn kém. Người phụ nữ phải uống đều đặn hàng ngày một viên thuốc có chứa một hàm lượng nhờ hóc–môn để ức chế sự phóng noãn.
Nhắc lại lịch sử thuốc tránh thai
Cách đây hơn 60 năm: người ta đã biết rằng bản thân những hóc môn sinh dục do buồng trứng tiết ra lại ức chế buồng trứng phóng noãn. Ngoài ra những hóc môn sinh dục nam cũng được xác định là ức chế sinh sản. Năm 1921, Haberlandt đã có ý kiến đề nghị ức chế sinh sản bằng hóc–môn. Nhưng ý kiến này đã bị bỏ lãng. Thật ra cũng có những khó khăn cơ bản. Trước hết, nêu dùng estrogen để ức chế phóng noãn thì chẳng bao lâu sẽ bị quen thuốc thì phải dùng liều lên. Mà tăng liều cao quá, cơ thể sẽ không chịu đựng được.
Nếu dùng progesteron thì phải tiêm, vừa phiền phức, vừa gây đau đớn. Các hóc–môn nam cũng không thể dùng lâu dài cho phụ nữ được vì sẽ gây tình trạng nam tính hóa. Mãi tới năm 1952, Colton và Djerassi mới tổng hợp được một chất có tác dụng giống progesteron, uống được và có tác dụng mạnh gấp nhiều lần so với progesteron. Đây là một sự kiện quan trọng đánh dấu một bước phát triến mới, tạo điều kiện tránh thai bằng hóc–môn.
Năm 1956, thử nghiệm được tiến hành trên súc vật, sau đó theo dõi trên người. Tính chất ức chế phóng noãn cũng được xác định.
Năm 1959, hóc–môn tránh thai đầu tiên được sử dụng. Từ đấy nhiều loại hóa chất tổng hợp khác có tác dụng giống progesteron lần lượt được tổng hợp và được gọi dưới một tên chung là progestagen. Tất cả các progestagen tổng hợp đều có tác dụng mạnh và uống được. Chúng là thành phần cơ bản của các thuốc tránh thai hóc-môn hiện nay.
Các dạng thuốc tranh thai sử dụng progestagen
Việc sử dụng các progestagen vào mục đích tránh thai và cơ chế tác dụng tránh thai của các progestagen rất đa dạng, phụ thuộc chủ yếu vào loại thuốc và liều dùng
– Progestagen có thể dùng liều cao 150 mg đến 250 mg tiêm một lần, có tác gụng tránh thai từ 2-3 tháng.
– Progestagen cũng có thể dùng liều thấp, dùng hàng ngày liên tục kể cả những ngày hành kinh. Liều hàng ngày hay được nói đến nhất là 0,5mg mỗi ngày, cũng có thử được dùng với liều thấp 0,007mg mỗi ngày như
nogestroel chẳng hạn. Hiện nay ở Việt Nam đang dùng Ogilin, liều mỗi ngày một viên 0,35mg. Như vậy là rất thấp so với liều dùng trong những năm đầu dùng progestagen. Khi ấy phải 10mg mỗi ngày. Với liều này, người phụ nữ dùng thuốc hay bị rối loạn kinh nguyệt, ra huyết nhỏ giọt và huyết bất thường giữa vòng kinh
– Dạng thuốc được sử dụng phổ biến nhất hiện nay là dạng kết hợp progestagen với estrogen. Uống hàng ngày, mỗi ngày 1 viên. Phần lớn mỗi chu kỳ chỉ uống 21 ngày, nghỉ 7 ngày. Trong những ngày nghỉ thuốc sẽ hành kinh. Liều thuốc trong mỗi viên ngày nay giảm đi rất nhiều. Có loại thuốc trong mỗi viên chỉ chứa 0,15mg progestagen và 0,03mg estrogen. Thí dụ viên Microgynon của Đức và viên Rigevidon của Hungari. Những viên thuốc liều thấp này được xếp hạng vào loại viên nhỏ, ý nói viên liều thấp. Những loại viên có liều trung bình thường chứa 0,25mg hoặc 0,5 progestagen và chưa 0,05mg estrogen. Thí dụ viên Oxidon của Hungari chứa 0,25mg Norgestrel và viên Eugynon của Đức chứa 0,5mg Norgestrel. Cũng phải nói rằng Norgestrel là loại progestagen ngày nay được sử dụng phổ biến nhất trong các viên thuốc hóc–môn tránh thai dù ở dưới dạng dùng đơn độc hay phối hợp với Estrogen. Nogestrel cho phép hạ liều xuống thấp mà vẫn đảm bảo độ tránh thai cao.
Sở dĩ người ta hay trình bày thuốc tránh thai theo vỉ 21 viên để uống trong 21 ngày là có ý cho uống chẵn trong 3 tuần, sau đó nghỉ 1 tuần. Bắt đầu uống thuốc vào ngày thứ mấy của tuần thì tháng sau lại bắt đầu uống vào ngày thứ ấy của tuần cho dễ nhớ. Vòng kinh như thế sẽ là 28 ngày. Ngoài ra, để giúp cho đỡ quên thuốc hơn nữa người ta còn trình bày thuốc theo những bìa 28 viên trong đó có 7 viên đệm, không chứa hóc môn tránh thai, những viên đệm này chỉ chứa đường, sắt hoặc vitamin. Với các bia thuốc loại này, cách uống sẽ đơn giản hơn, ngày nào cũng uống một viên, lần lượt từ những viên chứa hóc–môn (21 viên) và tận cùng bằng 7 viên đệm. Người phụ nữ sẽ hành kinh vào những ngày uống các viên đệm ấy.
Phân tích tác dụng các loại thuốc tránh thai
Thuốc tránh thai liều dùng trung bình với progestagen dùng đơn độc ngày nay không còn được sử dụng nữa vì hay gây những biến chứng rong kinh, chảy máu giữa vòng kinh và dùng lâu dài sẽ gây vô kinh.
Thuốc tránh thai liều thấp với proogestagen đơn thuần là phương pháp được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu nhưng cũng tỏ ra ít được ưa chuộng vì tỷ lệ vô kế hoạch khá cao. Lý do cũng dễ hiểu. Các thuốc progestagen liều thấp không đủ ức chế phóng noãn. Tác dụng tránh thai chủ yếu trong chờ ở khả năng làm đặc chất nhầy cổ tử cung ngăn cản tinh trùng thâm nhập lên đường sinh dục trên và phần nào dựa vào tác dụng lên niêm mạc tử cung không thuận lợi cho sự làm tổ của trứng. Dùng lâu cũng có thể dẫn tới vô kinh thứ phát.
Progestagen dùng liều cao từ 150 đến 250 mg có tác dụng tránh thai hàng 2–3 tháng cũng là phương pháp không được nhiều nước ưa chuộng.
Lác đác có một số nước đang phát triển có dùng, dựa vào khả năng sử dụng dễ dàng cho người phụ nữ, không phải uống thuốc hàng ngày. Nhưng phương pháp này có mấy nhược điểm căn bản. Trước hết liều thuốc đưa vào quá lớn, ồ ạt ngay từ ban đầu. Mặc dầu hy vọng rằng thuốc sẽ thấm dần vào cơ thể theo tốc độ đều đều, nhưng trên lý luận và thực tế thuốc có giảm dần hiệu quả và tới những ngày cuối cùng thì hết tác dụng.
Mặt khác nếu tại biến do thuốc gây ra, không thể mỗi chốc rút thuốc ra khỏi cơ thể được dù là dùng dưới dạng thuốc cấy, thuốc ghép. Ngoài ra thuốc gây vô kinh tương đối phổ biến sau một thời gian điều trị. Dùng thuốc sinh đẻ kế hoạch mà lại chậm kinh thì thật không yên tâm. Nhiều trường hợp đã phải theo dõi, khám đi, khám lại.. theo dõi nhiều lần để xem có phải có thai hay không.
Viên thuốc kết hợp gồm estrogen và progestagen trong cùng một viên thuốc là một dạng được dùng phổ biến nhất. Sự khác về sinh lý tự nhiên không những không có hại mà có vẻ còn có lợi. Sự có mặt của progestagen trong suốt vòng kinh có khả năng hạn chế bớt hiện tượng quá sản niêm mạc tử cung. Điều này đã được khẳng định qua các thống kê trên thế giới. Những
viên thuốc kết hợp liều nhỏ (chứa itestrogen) là dạng thuốc dùng thích hợp nhất.
Dạng thuốc uống kết hợp đóng kèm theo những viên đệm nhằm giải quyết việc uống liên tục, đơn giản hóa việc uống thuốc, đỡ quên là một dạng thuốc ngày nay được nhiều hãng sản xuất. Một số hãng thuốc còn ghi cả thứ tự các ngày thứ trong tuần như thứ hai, thứ ba. v.v...
Về chỉ định có thể nói là quá rộng rãi. Hầu hết những phụ nữ khỏe mạnh muốn tránh thai đảm bảo đều có thể dùng thuốc tránh thai uống dạng viên kết hợp viên liều thấp càng tốt. Một số phụ nữ có chỉ định thuận lợi hơn, thí dụ những người có kinh ít, kinh quá nhiều, kinh thưa, kinh quá mau v.v…
viên tránh thai kết hợp có tác dụng đưa vòng kinh và lượng huyết kinh trở lại bình thường. Tuy nhiên, thuốc tránh thai uống cũng cần được chỉ định một cách thận trọng. Một số không nhỏ những trường hợp có chống chỉ định dùng thuốc.
Những chống chỉ định tuyệt đối là những trường hợp có khối u dù ác hay lành tính có liên quan đến bộ phận sinh dục như các khối u ở vú, khối u ở cổ tử cung, ở thân tử cung như ung thư cổ tử cung, u tuyến vú, phì đại tuyến vú.
Những trường hợp có bệnh tim mạch nhu cao huyết áp, tắc mạch, phình tĩnh mạch, bệnh van tim, bệnh về chuyển hóa như béo bệu, đái tháo đường. Basedow đều không được dùng hóc–môn tránh thai. Những trường hợp bị bệnh gan, thận làm ảnh hưởng đến khả năng đào thải của thuốc càng không được dùng.
Ngoài ra có những chống chỉ định tương đối như con gái mớidậy thì, phụ nữ trên 35 tuổi, đang cho con bú, gây yếu v.v…
Trong quá trình dùng thuốc tránh thai dạng kết hợp uống nếu bị ra máu bất thường thì phải tăng liều lên 2 viên mỗi ngày. Khi hết ra huyết, lại rút xuống 1 viên mỗi ngày. Nhưng nếu bị nhiều tháng như vậy thì nên ngừng thuốc và thay thế bằng biện pháp tránh thai khác.
Chỉ nên dùng thuốc tránh thai hóc–môn trong thời gian 1 năm, 2 năm rồi thay bằng phương pháp tránh thai khác. Tốt nhất cứ sau mỗi năm dùng thuốc nghỉ 2 tháng để theo dõi tình hình kinh nguyệt. Nếu kinh nguyệt không bị biến động thì tiếp tục dùng thuốc. Nếu có biến động như kinh quá thưa, vô kinh thì nên thay thế bằng phương pháp tránh thai khác.