CHƯƠNG 2 LẬP TIẾN ĐỘ SẢN XUẤT XÂY DỰNG
3.3. Các tham số của dây chuyền
3.3.1. Tham số về địa điểm: gồm có đoạn thi công, đoạn công tác và tầng thi công.
a) Đoạn thi công: là một bộ phận hoặc toàn bộ kết cấu công trình tức là địa điểm làm việc của các đội thi công mà tại đó dây chuyền công tác được tiến triển.
Khi phân chia kết cấu công trình thành các đoạn thi công nội dung công t ác ở mỗi đoạn thi công phải giống nhau và khối lượng công tác phải bằng nhau hoặc gần bằng nhau. Bởi vì nếu nội dung công tác không giống nhau thì các quá trình thi công phải hoàn thành trên mỗi đoạn thi công sẽ không đồng đều; còn nếu khối lượng công tác không bằng nhau thì quá trình thi công giống nhau tiến hành trên các đoạn thi công khác nhau sẽ hoàn thành với những thời gian không như nhau. Như vậy sẽ không tổ chức thi công dây chuyển nhịp nhàng được. Phạm vi của đoạn thi công tốt nhất nên kết hợp chặt chẽ với khe nhiệt, khe lún, khe co giãn v.v... của kết cấu công trình và thoả mãn yêu cầu về kỹ thuật thi công. Ví dụ: mỗi khoảnh đổ của đập bêtông là một đoạn thi công, nó phải thích ứng với khả năng của các loại máy trộn, vận chuyển và đổ đầm bêtông, cũng như việc phân đoạn đập đất phải thích nghi tiện lợi đối với phương tiện vận chuyển máy móc thi công.v.v...
b) Đoạn công tác: là một bộ phận của đoạn thi công được phân chia cho tổ công nhân hoặc một công nhân cụ thể (người cùng với máy) để thực hiện công việc của mình. Mức độ to nhỏ của đoạn công tác nên cố gắng thoả mãn điều kiện làm việc tốt nhất cho công nhân và máy móc.
c) Tầng thi công: Nếu công trình không thể thi công một lần hết toàn bộ chiều cao của nó thì phải chia thành các tầng thi công theo chiều cao của công trình. Kích thước tầng thi công nói chung căn cứ vào đặc điểm kết cấu, điều kiện thi công và
điều kiện kỹ thuật để xác định cho được hợp lý. Thí dụ: khi phân chia tầng thi công của đập bêtông trọng lực cần phải xét đến sự bố trí đường hành la ng trong thân đập, chiều cao của máy cần trục thi công, chiều cao của ván khuôn và điều kiện toả nhiệt của bêtông khối lớn.
3.3.2. Tham số về công nghệ.
Gồm có quá trình thi công, khối lượng công trình và khối lượng công tác. Căn cứ vào mức độ phức tạp của nội dung công tác trên đoạn thi công mà người ta đem toàn bộ nội dung công tác chia thành một số quá trình thi công. Vậy quá trình thi công là sự hợp thành các phần việc có liên quan với nhau về mặt công nghệ do đội thi công chuyên nghiệp gồm một loạt công nhân cùng nghề tiến hành thực hiện.
Số lượng quá trình thi công dựa theo mức độ tỉ mỉ của nội dung công tác mà xác định. Khi nội dung công tác được phân chia tỉ mỉ thì quá trình thi công càng nhiều, số lượng đội thi công càng tăng và thời gian thi công chung càng kéo dài, nhưng trình độ chuyên môn hoá của công nhân càng được nâng cao. Nếu nội dung công tác phân chia quá rộng, không những giảm thấp trình độ chuyên môn hoá của công nhân mà còn khiến cho công nhân trong đội thi công đảm nhiệm những công việc không đều nhau, do đó không thể phát huy một cách đầy đủ hiệu suất làm việc của toàn đội thi công. Vì vậy, việc phân chia nội dung cô ng tác để xác định số quá trình thi công có ý nghĩa rất quan trọng trong tổ chức thi công theo phương pháp dây chuyền.
3.3.3. Tham số về thời gian.
Gồm 4 loại chính:
• Nhịp của dây chuyền tn: là khoảng thời gian kéo dài cần thiết để cho 1 đội thi công bất kỹ hoàn thành quá trình thi công đã được chỉ định trên 1 đoạn thi công. Xác định:
NR Q SNR tn = P = Với: + N - số đoạn thi công.
+ R - số lượng công nhân hoặc máy móc của một đội thi công để hoàn thành quá trình thi công bất kỳ.
+ S - định mức sản lượng của một công nhân hoặc một cỗ máy để hoàn thành quá trình thi công bất kỳ trong đơn vị thời gian.
+ P - khối lượng công tác của quá trình thi công bất k ỳ trên tất cả N đoạn thi công.
+ Q - số công cần thiết để hoàn thành toàn bô khối lựơng công tác của quá trình thi công bất kỳ trên tất cả N đoạn thi công.
Nếu khối lượng công tác trên các đoạn thi công không như nhau thì tn có thể đổi thành:
Trong đó: q - số công cần thiết để hoàn thành khối lượng công tác của quá trình thi công bất kỳ trên 1 đoạn thi công bất kỳ.
Cần chú ý rằng: trị số tn tính toán được nên là bội số ngày đêm hoặc của ca, ít nhất cũng là bội số của 1/2 ca, nếu không thì lúc công nhân di chuyển địa điểm làm việc sẽ gây nên sự tổn thất thời giờ làm việc của ca.
Bước dây chuyền tb: là một thông số thời gian rất quan trọng trong phương pháp dây chuyền, có ảnh hưởng rất rõ rệt đến thời hạn thi công. Nó biểu thị sự cách quãng về thời gian của đội thi công có tính chất giống nhau lần lượt bắt đầu vào làm việc ở hai giai đoạn thi công gần kề nhau.
Cũng như nhịp dây chuyền, trị số tb tính toán được nên lấy là bội số của ngày đêm, của ca hoặc ít nhất là 1/2 ca. Trong trường hợp dây chuyền nhịp nhàng thì trị số tb còn phải là ước số chung của nhịp dây chuyền.
c) Đơn vị dây chuyền Tj: là thời gian cần thiết để hoàn thành toàn bộ các quá trình thi công trong cùng một đoạn thi công, được xác định theo công thức:
Trong đó: tc - thời gian cách quãng vì nguyên nhân kỹ thuật hoặc tổ chức (như thời gian dưỡng hộ bêtông);
tg - thời gian gối đầu vì nguyên nhân kỹ thuật hoặc tổ chức (như thời gian khoan lỗ và vận chuyển đất đá khi đào đường hầm);
m - số lượng quá trình thi công trên một đoạn thi công.
d) Thời gian thi công chung T: là thời gian cần thiết để hoàn thành toàn bộ các quá trình thi công trên tất cả các đoạn thi công trong dây chuyền chung. Nó có quan hệ mật thiết với số đoạn thi công. Khi số đoạn thi công N càng nhiều thì thời gian thi công chung T càng dài, tức là sự kéo dài của thời gian thi công chung tỷ lệ thuận với số đoạn thi công.
Theo thời gian thi công chung T, các dây chuyền sẽ phát triển theo ba giai chuyền và mức độ sử dụng vật tư ở từng giai đoạn
đoạn:
- Thời kỳ mở rộng T’: các dây chuyền bộ phận (các quá trình thi công) triển khai đi vào dây chuyền chung, vật tư sử dụng lần lƣợt tăng dần.
- Thời kỳ ổn định T’’: vật tư sử dụng ổn định, thời kỳ này càng dài càng tốt vì tận dụng được hết năng lực sản xuất.
- Thời kỳ thu hồi T’’’: các dây chuyền bộ phận lần lượt kết thúc rút ra khỏi dây chuyền chung, mức độ sử dụng vật tư giảm dần.