D. LIÊN HỆ ĐỐI VỚI BẢN THÂN
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HCM
GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG HCM Khách quan – chủ quan
Cũng như mọi tư tưởng khác, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc thực tiễn của nó. Các nguồn tư tưởng chủ yếu ảnh hưởng đến sự hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh là:
a. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam
Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã tạo lập cho dân tộc một nền văn hóa đặc sắc, phong phú và bền vững với nhiều truyền thống tốt đẹp và cao quý. Những truyền thống tư tưởng và văn hóa này đã góp phần tạo nên Tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm:
- Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước vã giữ nước. Đây là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa - tinh thần Việt Nam.
- Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái trong hoạn nạn khó khăn. Truyền thống này được quy định bởi cuộc đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Người Việt có thói quen sống gắn bó, tắt lửa tối đèn có nhau trong tình làng nghĩa xóm. Truyền thống này rất bền vững trước những sự biến đổi của lịch sử.
- Truyền thống lạc quan, yêu đời. Cơ sở của tinh thần lạc quan đó là từ niềm tin vào bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa dù hiện tại còn đầy gian truân khổ ải.
- Dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, là một dân tộc không ngừng học hỏi điều hay, lẽ phải và không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Người Việt Nam không chỉ biết tiếp thu tư tưởng Phật, Lão, Nho… của phương Đông mà cả những tư tưởng văn hóa hiện đại của phương Tây,
người Việt Nam ngay từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan.
Trên cơ sở giữ vững bản sắc dân tộc, nhân dân ta biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị của riêng mình.
b. Tinh hoa văn hóa của nhân loại
Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ đã được hấp thu một nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Trong những năm ở nước ngoài, Người đã không ngừng làm giàu trí tuệ mình bằng những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hồ Chí Minh là một con người đặc trưng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông - Tây.
- Tư tưởng văn hóa phương Đông:
+ Tư tưởng Nho giáo: Hồ Chi Minh đã nhìn thấy và đã nhiều lần phê phán, bác bỏ những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, coi khinh lao động chân tay, coi thường phụ nữ, khinh thường thực nghiệp, doanh lợi... của Nho giáo nhưng Người cũng thấy được những yếu tố tích cực mà nhờ đó Nho giáo có sức sống mãnh liệt trong mấy ngàn năm qua. Đó là: triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, đó là lý tưởng về một xã hội bình trị, an ninh, hòa mục; là triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính, mọi người từ vua tới dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc. Bên cạnh đó Nho giáo đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Điểm này là điểm hơn hẳn của Nho giáo so với các học thuyết cổ đại vì nhiều học thuyết thời ấy chủ trương ngu dân để dễ cai trị. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ nhiệm vụ của cách mạng.
+ Tư tưởng của Phật giáo: Nói Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền thống là bao hàm cả Phật giáo. Hồ Chí Minh đã nhận thấy bên cạnh những hạn chế, phật giáo có nhiều mặt tích cực, đó là tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân, kêu gọi nếp sống có đạo đức trong sạch giản dị, chăm lo làm điều thiện, đó là tinh thần bình đẳng, dân chủ chất phác, chống lại sự phân chia đẳng cấp; ngoài ra Phật giáo đề cao tinh thần lao động chống lười biếng, chủ trương sống gắn bó với nhân dân và đất nước.
+ Ngoài tư tưởng của Nho giáo và Phật giáo, ta còn có thể tìm thấy trong Tư tưởng Hồ Chí Minh những tư tưởng khác của các nhà tư tưởng phương Đông như Lão tử, Mặc tử, Quản tử,…
và sau này là Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn vì “những điều đó thích hợp với điều kiện nước ta". Hồ Chí Minh là người đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
- Tư tưởng văn hóa phương Tây
+ Khi học từ Tiểu học đến Trung học, Nguyễn Tất Thành đã làm quen với nền văn hóa Pháp, đặc biệt Nguyễn Tất Thành rất muốn am hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789.
+ Khi đến nước Mỹ, Hồ Chí Minh được biết bản Tuyên ngôn độc lập 1776 nổi tiếng của nước Mỹ, sau người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người đã được ghi trong bản tuyên ngôn ấy.
+ Sống, làm việc ở Anh, đặc biệt là thời kỳ sống ở thủ đô nước Pháp (1917) Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với một trung tâm văn hóa - nghệ thuật lớn của châu Âu và hiểu được nền văn hóa Pháp. Nước Pháp là quê hương của tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng, những lý luận gia của Đại cách mạng Pháp: Vonte, Rútxô, Môngtecxkiơ… Bên cạnh đó Nguyễn Ái Quốc còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân chủ cho mình ngay từ trong cuộc sống thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia đảng phái, hội họp, ra báo, phát biểu ý kiến và trình bày quan điểm của mình trước dư luận Pháp, viết bài phê phán, lên án bọn quan lại, vua chúa nước mình, cả bọn thống sứ, toàn quyền đang gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc còn học được cách làm việc dân chủ ngay trong cách sinh hoạt khoa học ở các câu lạc bộ và trong sinh hoạt chính trị của Đảng Xã hội Pháp.
- Tóm lại: nhờ quá trình được rèn luyện trong phong trào công nhân, được sự cổ vũ dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Nguyễn Ái Quốc đã từng bước trưởng thành trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa thu nhận, vữa chắt lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ, hành động, vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam.
c. Chủ nghĩa Mác - Lênin: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc mới có thể hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin có những điểm chú ý sau:
- Hồ Chí Minh khi hấp thụ, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin đã không rơi vào sự sao chép, giáo điều, rập khuôn, biết tiếp thu và vận dụng có chọn lọc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
- Nếu như nhiều nhà trí thức phương Tây đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như đến với một học thuyết, nhằm giải quyết những vấn đề của tư duy nhiều hơn là của hành động thì Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo Phương pháp nhận thức mácxit, đồng thời theo lối "đắc ý, vong ngôn” của phương Đông, cốt nắm lấy cái tinh thần, bản chất chứ không bị trói buộc vào ngôn từ. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của
chủ nghĩa Mác - Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với những hoàn cảnh, thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
Nhân tố chủ quan là một nhân tố quan trọng trong việc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cùng thời có biết bao đảng viên đảng Xã hội Pháp người Việt cùng đọc luận cương của V.I.Lênin nhưng chỉ có Nguyễn Ái Quốc sớm nhìn ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước và giải phóng các dân tộc thuộc địa. Những nhân tố chủ quan đó là:
- Khả năng tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo cùng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản hiện đại.
- Sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là khoa học về cách mạng của giai cấp vô sản.
- Tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Giai đoạn hình thành
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó không thể hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn với quá trình lớn mạnh của Đảng Cộng sản và cách mạng Việt Nam. Có thể chia các giai đoạn hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh thành các giai đoạn sau:
a. Từ 1890 đến 1911
Đây là giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh là thời kỳ tiếp nhận truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc, hấp thụ vốn Quốc học, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây, chứng kiến cảnh sống khốn cùng, điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh nên từng bước hình thành hoài bão cứu dân, cứu nước. Nhờ đó, Hồ Chí Minh đã xác định được hướng đi đúng cho con đường cách mạng của mình.
b. Từ 1911 đến 1920
Đây là giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm. Giai đoạn này Hồ Chí Minh bôn ba khắp các châu lục để tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân của các dân tộc bị áp bức. Năm 1920, được tiếp xúc với Luận cương của V. I. Lênin về vấn đề dân
tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã thấy được con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã biểu quyết tán thành Quốc tế III, gia nhập Đảng Công sản Pháp. Đó là những sự kiện đánh dấu sự chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin và trở thành người cộng sản.
c. Từ 1921 đến 1930
Giai đoạn này hình thành về cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam. Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận cự kỳ sôi nổi và phong phú của Hồ Chí Minh dước cái tên Nguyễn Ái Quốc để tiến tới thành lập chính đảng ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã làm được rất nhiều việc: Ở nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Le Paria nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin vào các nước thuộc địa, năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Mátxcơva dự Hội nghị quốc ta Nông dân, sau đó Người tiếp thục tham dự Đại hội Quốc tế Thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ, Quốc tế Công hội đỏ,… cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động. Tháng 2 - 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
d. Từ 1930 đến 1941
Đây là giai đoạn Hồ Chí Minh phải vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam. Thời kỳ này Quốc tế Cộng sản bị chi phối bởi quan điểm "tả" khuynh nên đã chỉ trích, phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong Hội nghị hợp nhất.
Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930 của Đảng ta, theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản cũng ra nghị quyết thủ tiêu Chánh cương và Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc đề ra (3/2/1930) đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đang đến gần. Đại hội và Quốc tế Cộng sản đã tự phê bình về khuynh hướng "tả", cô độc, biệt phái, bỏ rơi mất ngọn cờ dân tộc và dân chủ, để cho các đảng tư sản, tiểu tư sản và phát xít nắm lấy mà chống phá cách mạng. Đại hội đã chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít. Năm 1936, trên thực tế Đảng ta đã trở lại với Chánh cương, Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc.
e. Từ 1941 đến 1969
Đây là giai đoạn phát triển và thắng lợi của Tư tường Hồ Chí Minh. Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước để trực tiếp chỉ đạo cách mạng nước ta và đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Đó là thắng lợi đầu tiên của việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh. Sau khi giành được chính quyền. Đảng và nhân ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam. Đây là thời kỳ
Tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: về đường lối chiến tranh nhân dân: "toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính"; về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh, về xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền; về xây dựng nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân, về sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế…
Di chúc thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng vạch ra như định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân tộc khi thống nhất mà ngày nay chúng ta vẫn tiếp tục làm theo.