Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xó hội

Một phần của tài liệu ĐỀ CƯƠNG MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN (Trang 20 - 34)

Tính quyết định của TTXH đối với YTXH được thể hiện ở chỗ:

TTXH quy định nội dung của YTXH;

TTXH nào thì sinh ra YTXH ấy;

TTXH thay đổi, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, tôn giáo, đạo đức, văn học, nghệ thuật sớm, muộn cũng thay đổi theo cho phù hợp. Mác: “Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại, chính sự tồn tại của họ quyết định ý thức của họ”.

b. Tính độc lập tương đối của YTXH

Trong khi khẳng định vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH, và YTXH là sự phản ánh của TTXH, phụ thuộc vào TTXH, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem YTXH như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh sự tồn tại độc lập tương đối và tác động tích cực của YTXH đối với TTXH.

Tính độc lập tương đối của YTXH biểu hiện ở 5 điểm sau đây:

- YTXH thường lạc hậu hơn so với TTXH

Đây là một khuynh hướng chung trong sự tồn tại và phát triển của YTXH. Lịch sử đã chứng minh rằng nhiều chế độ xã hội cũ bị xoá bỏ, thậm chí từ rất lâu nhưng những tư tưởng do chế độ xã hội ấy sinh ra vẫn còn tồn tại rất dai dẳng trong đời sống tinh thần của nhân dân ở xã hội mới điều đó thể hiện rõ nét ở tâm lý xã hội. Sự lạc hậu của YTXH so với TTXH có những lý do sau:

+ YTXH là cái ra đời từ TTXH, phản ánh TTXH cho nên nó chỉ biến đổi khi TTXH đã biến đổi.

+ Do tính bảo thủ của một số hình thái YTXH như tôn giáo, đạo đức.

+ Do có những lực lượng xã hội, những giai cấp và đảng phái ra sức duy trì những tư tưởng, quan điểm cũ, lạc hậu chống lại những tư tưởng tiến bộ, cách mạng.

- Tính vượt trước của những tư tưởng khoa học tiến bộ

Ở đây YTXH đã tìm ra khuynh hướng phát triển của TTXH và ít nhiều phản ánh chính xác các khuynh hướng đó vì vậy nó có thể dự kiến, vạch đường đi cho tương lai và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng những hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất xã hội đề ra.

- Tính kế thừa trong sự phát triển của YTXH

Bất cứ một học thuyết, một lý luận, một tư tưởng mới nào ra đời cũng trên cơ sở kế thừa những tư tưởng, lý luận của các thời đại trước đó để lại

Tính kế thừa của YTXH bao giờ cũng gắn liền với tính giai cấp của nó trong xã hội có giai cấp.

- Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các hình thái YTXH

YTXH là sự phản ánh TTXH, nhưng YTXH (nhất là hệ tư tưởng xã hội) phản ánh TTXH thông qua các hình thái YTXH như chính trị, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật. Các hình thái YTXH này không tồn tại cô lập, tách rời nhau mà có sự tác động qua lại lẫn nhau và tác động đến TTXH.

Trong các hình thái YTXH thì tư tưởng chính trị có ảnh hưởng to lớn nhất vì nó biểu hiện lợi ích giai cấp một cách trực tiếp và tập trung nhất. Lênin nói: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung nhất của kinh tế”. Thông qua hoạt động của Nhà nước và các chính đảng, tư tưởng chính trị tác động mạnh mẽ vào cơ sở kinh tế, vào sự phát triển của tất cả các hình thái YTXH, mang lại cho chúng một khuynh hướng giai cấp và một mục đích chính trị rõ rệt.

- YTXH tác động tích cực trở lại TTXH. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của TTXH. Nó thúc đẩy khi đó là những ý thức, tư tưởng, lý luận khoa học tiên tiến lại nằm trong tay giai cấp tiến bộ, cách mạng, nó phản ánh đúng, chính xác nhu cầu phát triển của xã hội, tìm ra những khuynh hướng phát triển của TTXH. Nó kìm hãm khi đó là những tư tưởng, những lý luận phản khoa học, bảo thủ, lạc hậu lại nằm trong tay giai

cấp thống trị khi đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, phản ánh sai lệch xuyên tạc đời sống vật chất của xó hội.

* Vận dụng mối quan hệ trên ở nước ta hiện nay

+ Về tồn tại xó hội: muốn thay đổi xó hội thỡ phải thay đổi tồn tại xó hội mà trước hết là thay đổi phương thức sản xuất. Để thay đổi PTSX, từ năm 1986, Đảng ta đó chủ trương thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất. Với những thay đổi đó làm cho đời sống vật chất của nhân dân được nâng cao, đời sống tinh thần ngày càng phong phú.

+ Về ý thức xó hội: Về hệ tư tưởng: lấy chủ nghĩa Mác – Leenin và tư tưởng HCM làm kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng.

- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Nâng cao dân trí, đẩy mạng giáo dục ý thức đạo đức, văn hóa cho toàn dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên.

- Tăng cường tính pháp chế XHCN, xử lý nghiờm minh theo phỏp luật…

Phần phụ, đọc thêm (để viết cho sâu sắc)

2. Nguyờn lý về mối liên hệ phổ biến

Khái niệm liên hệ. Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng luôn tương tác với nhau, qua đó thể hiện các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mỡnh là những đối tượng thực tồn. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm đối tượng, các thuộc tính của nó thay đổi, và trong có thể cũn làm nú biến mất, chuyển húa thành đối tượng khác. Sự tồn tại của đối tượng, sự hiện hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các tương tác giữa nó với các đối tượng khác, chứng tỏ rằng, đối tượng có liên hệ với các đối tượng khác. Nhưng thế nào là mối liên hệ?

“Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Cũng có thể dùng khái niệm “quan hệ”, nhưng khái niệm

“quan hệ” rộng hơn “liên hệ”. Liên hệ chỉ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi. Chẳng hạn, vận động của vật thể có liên hệ hữu cơ với khối lượng của nó, bởi sự thay đổi vận tốc vận động tất yếu làm khối lượng của nó thay đổi; các sinh vật đều có liên hệ với môi trường bên ngoài: những thay đổi của môi trường tất yếu làm cơ thể có sự thay đổi tương ứng; công cụ lao động liên hệ với đối tượng lao động: những thay đổi của công cụ luôn gây ra những thay đổi xác định trong đối tượng lao động mà các công cụ đó tác động lên, đến lượt mỡnh sự biến đổi của đối tượng lao động tất gây ra những biến đổi ở các công cụ lao động,…

Ngược lại, cô lập (tách rời) là trạng thái của các đối tượng, khi sự thay đổi của đối tượng này không ảnh hưởng gỡ đến các đối tượng khác, không làm chúng thay đổi.

Chẳng hạn, sự biến đổi các nguyên tắc đạo đức không hề làm hạt nhân nguyên tử thay đổi, và ngược lại, những thay đổi trong hạt nhân, cũng khó làm các nguyên tắc đạo đức thay đổi.

Các ví dụ về liên hệ và cô lập hoàn toàn không có nghĩa là, một số đối tượng luôn liên hệ, cũn những đối tượng khác lại chỉ cô lập. Trong các trường hợp liên hệ xét ở trên vẫn có sự cô lập, cũng như ở các trường hợp cô lập vẫn có mối liên hệ qua lại. Trên thế giới mọi đối tượng đều trong trạng thái liên hệ và cô lập với nhau. Chúng liên hệ với nhau ở một số khía cạnh, và không liên hệ với nhau ở những khía cạnh khác, trong chúng có cả những biến đổi khiến các đối tượng khác thay đổi, lẫn những biến đổi không làm các đối tượng khác thay đổi. Như vậy, liên hệ và cô lập thống nhất với nhau

mà ví dụ điển hỡnh là quan hệ giữa cơ thể sống và môi trường. Cơ thể sống gắn bó với môi trường nhưng đồng thời cũng tách biệt với nó, có tính độc lập tương đối. Một số thay đổi của môi trường nhất định làm cơ thể sống thay đổi, những thay đổi khác lại không làm nó thay đổi. Chỉ những biến đổi môi trường gắn với hoạt động sống của cơ thể mới ảnh hưởng đến nó; cũn những thay đổi không đụng chạm gỡ đến hoạt động đó thỡ khụng gõy ra sự biến đổi nào trong nó. Như vậy, liên hệ và cô lập luôn tồn tại cùng nhau, là những mặt tất yếu của mọi quan hệ cụ thể giữa các đối tượng.

Các nhà siờu hỡnh thường phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối tượng, các nhà duy tâm rút các mối liên hệ đó ra từ ý thức, tinh thần (Hê-ghen cho rằng, ý niệm tuyệt đối là nền tảng của cỏc mối liờn hệ, cũn Bộccơly trên lập trường duy tâm chủ quan lại cho rằng, cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các đối tượng). Từ chỗ cho rằng, mọi tồn tại trong thế giới đều là những mắt khâu của một thực thể vật chất duy nhất, là những trạng thái và hỡnh thức tồn tại khỏc nhau của nú, phộp biện chứng duy vật thừa nhận, có mối liên hệ phổ biến giữa các đối tượng. Thế giới không phải là thể hỗn loạn các đối tượng, mà là hệ thống các liên hệ đối tượng. Như vậy, chính tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở cho mọi liên hệ. Nhờ sự thống nhất đó các đối tượng không thể tồn tại cô lập, mà luôn tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.

Tính khách quan của mối liên hệ

Mối liên hệ luôn vốn có ở bản thân đối tượng chứ không hề mang tính chủ quan.

Trong thế giới không có đối tượng nào tồn tại cô lập, mỗi đối tượng đều tồn tại cùng các mối liên hệ, bản tính đó là khách quan ở mọi đối tượng. Các đối tượng chỉ thể hiện sự tồn tại của mỡnh thụng qua sự vận động, tác động lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của chúng cũng chỉ bộc lộ thông qua liên hệ với các đối tượng khác. Để hiểu tính khách quan của đối tượng thỡ con người phải xuất phát từ các mối liên hệ vốn có của chính nó.

Đây là yêu cầu quan trọng nhằm phân biệt phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm và thuật ngụy biện.

Tính phổ biến của mối liên hệ

Như vậy, bất cứ đối tượng nào cũng liên hệ với các đối tượng khác, không có đối tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Mối liên hệ cũng có ở tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xó hội và tư duy. Mối liên hệ biểu hiện dưới những hỡnh thức đặc biệt tùy thuộc những

phổ biến, chung nhất. Ngoài ra, tính phổ biến các mối liên hệ của đối tượng, cũn gồm hai tầng nghĩa nữa. Một là, các yếu tố, các bộ phận khác nhau bên trong mọi đối tượng cũng đều luôn liên hệ tác động qua lại, tức là, chúng phải có kết cấu nội tại. Hai là, thế giới trong tính toàn bộ của nó là một chỉnh thể thống nhất của các mối liên hệ tương tác lẫn nhau. Từ giới tự nhiên vô cơ, hữu cơ, đến xó hội, mọi đối tượng đều liên hệ phổ biến và tác động lẫn nhau, không tồn tại đối tượng tuyệt đối cô lập. Thực tiễn tạo nên các hỡnh thức tồn tại xó hội và hoạt động sống của con người, mà thực chất là những mối liên hệ riêng có của loài người, tức là phương thức và con đường cơ bản thực hiện các mối liên hệ thực giữa xó hội và giới tự nhiờn, giữa con người với nhau trong xó hội.

V.I.Lê-nin nhấn mạnh: “Những quan hệ của mỗi sự vật (hiện tượng,v.v…) không những là muôn vẻ, mà cũn là phổ biến, toàn diện. Mỗi sự vật (hiện tượng, quá trỡnh.v.v.) đều liên hệ với mỗi sự vật khác”1. Toàn bộ sự phát triển khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của loài người đó chứng minh điều này. Thế giới là một chỉnh thể thống nhất các mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau; đối tượng nào cũng đều là sự liên kết trong mạng lưới các mối liên hệ thống nhất và thể hiện tính phổ biến của nó thông qua mạng lưới đó.

Tính đa dạng của các mối liên hệ.

Vỡ cú nhiều đối tượng cùng tồn tại, vận động và phát triển thông qua liên hệ tương tác với nhau, do vậy các mối liên hệ cũng rất đa dạng, mỗi đối tượng có nhiều mối liên hệ, chúng được phân loại thành: liên hệ bên trong liên hệ bên ngoài; liên hệ chủ yếu liên hệ thứ yếu; liên hệ bản chất liên hệ không bản chất; liên hệ tất nhiên liên hệ ngẫu nhiên; liên hệ trực tiếp liên hệ gián tiếp;… Các cặp mối liên hệ có quan hệ biện chứng với nhau, sự phân chia từng cặp đó chỉ tương đối, vỡ nú chỉ là một hỡnh thức, một bộ phận, một mắt khõu của mối liờn hệ phổ biến. Mỗi loại liờn hệ trong từng cặp cú thể chuyển húa lẫn nhau tựy theo phạm vi bao quỏt của nó, hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các đối tượng.

Nếu mỗi đối tượng đều liên hệ hữu cơ với các đối tượng khác và sự liên hệ đó hỡnh thức tồn tại, là điều kiện cần thiết, để bộc lộ các thuộc tính của đối tượng, thỡ để nhận thức nó và các thuộc tính đặc trưng của nó, tất yếu phải khảo sát nó trong mối liên hệ hữu cơ với các đối tượng khác, cần phải tính đến “tổng hũa những quan hệ muôn vẻ

của sự vật ấy với những sự vật khác”2. Chỉ có như thế mới đảm bảo kết quả nhận thức chân thực về đối tượng. “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhỡn bao quỏt và nghiờn cứu tất cả cỏc mặt, tất cả cỏc mối liờn hệ và “quan hệ giỏn tiếp” của sự vật đó”3.

Chẳng hạn, để nhận thức bản chất con người, cần phải khảo sát nó trong các quan hệ sản xuất, phân phối của cải vật chất, trong các quan hệ chính trị, tư tưởng, gia đỡnh và cỏc quan hệ khỏc. Để hiểu bản chất của tư bản, cần nghiên cứu các quan hệ tiền hàng, sự chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa và tương quan của nó với người chủ tư liệu sản xuất.

Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đạt hiệu quả hoạt động cao nhất. Nguyên lý biện chứng duy vật về mối liờn hệ phổ biến của cỏc đối tượng đũi hỏi con người phải biết phân tích mối liên hệ cụ thể của đối tượng, xây dựng quan niệm về tính chỉnh thể, tính mở trong phân tích các mối liên hệ của các đối tượng, khảo sát các liên hệ phổ biến của đối tượng từ động thái của nó. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xó hội ở nước ta hiện nay đũi hỏi mọi người phải nhận thức chớnh xỏc và xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với nhau, nhằm thúc đẩy sự phát triển nhịp nhàng bền vững toàn diện đời sống kinh tế - xó hội. Ngày nay thế giới toàn cầu húa đó trở nờn mở hơn bao giờ hết, các quốc gia, dân tộc ngày càng có xu thế tồn tại trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, điều đó lại càng đũi hỏi chỳng ta phải biết nắm bắt cỏc mối liờn hệ tương hỗ nhiều mặt trong tiến trỡnh phỏt triển của thế giới, thực hiện chớnh sỏch hội nhập, nắm bắt thời cơ và phát huy nội lực của đất nước để phát triển.

í nghĩa phương pháp luận (vận dụng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn) Nguyên tắc toàn diện

Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và giải quyết các vấn đề thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật, được xác lập trực tiếp từ nguyên lý về mối liờn hệ phổ biến. Theo nguyờn tắc này, cần phải thực hiện cỏc yờu cầu sau:

Thứ nhất, phải xem xột sự tồn tại của đối tượng trong mối liên hệ giữa các bộ phận, thuộc tính khác nhau của nó và trong mối liên hệ giữa nó với các đối tượng khác, tránh cách xem xét phiến diện một chiều, có như vậy mới nhận thức được bản chất và các quy luật của đối tượng; Thứ hai, phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải

Một phần của tài liệu ĐỀ CƯƠNG MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN (Trang 20 - 34)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(73 trang)
w