Sản xuất vật chất - nền tảng của sự vận động, phát triển xó hội
Biện chứng của sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử
Bất cứ một quỏ trỡnh sản xuất vật chất nào cũng diễn ra với sự tồn tại “song trựng”
của hai mối quan hệ cơ bản, đó là: mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với nhau. Khái niệm lực lượng sản xuất và khái niệm quan hệ sản xuất phản ánh hai mối quan hệ song trùng ấy, trong đó khái niệm lực lượng sản xuất phản ánh trỡnh độ con người chinh phục giới tự nhiên trong quá trỡnh sản xuất, cũn khái niệm quan hệ sản xuất phản ánh sự liên kết giữa những con người theo yêu cầu khách quan của sự chinh phục giới tự nhiên ở một trỡnh độ phát triển nhất định.
- Khái niệm “lực lượng sản xuất” phản ánh mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, biểu hiện trỡnh độ con người chinh phục tự nhiên trong quá trỡnh sản xuất vật
mối quan hệ vật chất giữa con người với giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên bằng sức mạnh thực tiễn. Mối quan hệ đó được thực hiện thụng qua quỏ trỡnh lao động sản xuất vật chất. Vỡ vậy xột về thực chất, khỏi niệm “lực lượng sản xuất” dùng để chỉ năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Năng lực đó được tạo ra trong đời sống hiện thực bằng sự kết hợp giữa sức lao động (sức lực vật chất và tinh thần - đặc biệt là yếu tố tri thức) của con người với những tư liệu sản xuất trong quỏ trỡnh lao động của họ.
Do đó, có thể định nghĩa vắn tắt: Lực lượng sản xuất là toàn bộ các yếu tố vật chất và tinh thần của con người, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo mục đích của quá trỡnh sản xuất vật chất.
Trỡnh độ phát triển của năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người, tức trỡnh độ phát triển của lực lượng sản xuất, phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau đây:
Một là, trỡnh độ phát triển của các tư liệu sản xuất; trong đó, trỡnh độ phát triển của công cụ lao động thể hiện tập trung trỡnh độ phát triển của các tư liệu sản xuất.
Hai là, trỡnh độ phát triển của năng lực lao động thực tế của con người, tức của sức lao động, bao gồm trong đó toàn bộ sức lực vật chất và sức lực tinh thần (kỹ năng, kinh nghiệm,…) của người lao động.
Ba là, phương thức kết hợp các yếu tố trong quá trỡnh sản xuất. Cựng một trỡnh độ phát triển của tư liệu sản xuất và sức lao động của con người nhưng phương thức phân công hợp tác phối kết hợp khác nhau có thể tạo ra chất lượng, trỡnh độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, do đó trong thực tế chúng cũng có giá trị hiện thực khác nhau, thể hiện trỡnh độ năng lực thực tiễn khác nhau trong quá trỡnh sản xuất.
Trong các yếu tố tư liệu sản xuất và người lao động (tức con người có khả năng lao động được tạo nên bởi các yếu tố vật chất và tinh thần của chính bản thân họ) thỡ nhõn tố người lao động là yếu tố cơ bản nhất. Bởi vỡ, suy đến cùng thỡ trỡnh độ phát triển của tư liệu sản xuất chỉ là kết tinh giá trị lao động của con người, là sản phẩm lao động của con người, phản ánh trỡnh độ lao động của con người; đồng thời, giá trị thực tế tạo nên năng lực thực tiễn trong quỏ trỡnh sản xuất phụ thuộc vào trỡnh độ lao động thực tế của người lao động khi họ sử dụng những tư liệu đó.
Nếu xem xột quỏ trỡnh lao động sản xuất là quá trỡnh sản xuất khụng phải với tư cách trực quan là quá trỡnh lao động sản xuất đơn lẻ, riêng biệt của mỗi cá nhân độc lập
mà là tổng thể quỏ trỡnh lao động của một xó hội thỡ cỏc yếu tố tư liệu sản xuất và người lao động cần phải được phân tích là tổng thể phối kết hợp giữa các loại và trỡnh độ phát triển của tư liệu sản xuất cũng như giữa cỏc loại và trỡnh độ phát triển của người lao động trong tính toàn thể xó hội của nú. Trong đó, có sự phối kết hợp giữa các loại lao động phát triển ở những trỡnh độ khác nhau (lao động trí óc và lao động chân tay, lao động trực tiếp và gián tiếp,…). Cách hiểu đó mới có thể cho thấy sự phát triển của lực lượng sản xuất của thời đại ngày nay.
Một trong những đặc điểm lớn của thời đại ngày nay là có sự phát triển hết sức nhanh chóng của các ngành khoa học tự nhiên gắn kết với các quá trỡnh phỏt minh sỏng chế kỹ thuật mới, từ đó làm xuất hiện và phát triển rất nhanh chóng của các ngành công nghệ cao như: công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ,… Các ngành công nghệ đó ngày càng đóng vai trũ then chốt, trụ cột trong sự phát triển của lực lượng sản xuất ở các nước có nền công nghiệp hiện đại. Với sự phát triển đó, tất yếu đũi hỏi quỏ trỡnh phỏt triển trỡnh độ ngày càng cao của người lao động trong xó hội cụng nghiệp hiện đại. Xu hướng sử dụng trỡnh độ lao động có đào tạo và được đào tạo ở trỡnh độ chuyên môn cao và theo chiều sâu của sự chuyên môn hóa để có thể thích ứng với việc sử dụng sản phẩm kỹ thuật mới ngày càng được coi trọng, thay thế dần cho trỡnh độ lao động căn bản dựa trên những kỹ năng kinh nghiệm lao động thông thường không cần trải qua quá trỡnh đào tạo chuyên sâu. Những sự phát triển đó của lực lượng sản xuất trong xó hội cụng nghiệp hiện đại đó thể hiện khuynh hướng gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa hai quá trỡnh sản xuất vật chất và tinh thần của xó hội, thể hiện khuynh hướng khoa học kỹ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà C.Mác đó dự bỏo từ thế kỷ XIX. Biểu hiện cao nhất của quỏ trỡnh đó là sự ra đời và phát triển của các khu công nghệ cao, trong đó có sự liên kết chặt chẽ giữa những nhà sản xuất và những nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu khoa học, các trường đại học đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phù hợp với nhu cầu phát triển của nền công nghiệp hiện đại.
Khuynh hướng phát triển của lực lượng sản xuất trong các xó hội cụng nghiệp hiện đại cũng tất yếu thúc đẩy tiến trỡnh “xó hội húa” của lực lượng sản xuất mà biểu hiện tiờu biểu cho tiến trỡnh đó là sự phụ thuộc tất yếu ngày càng tăng về mặt trỡnh độ phát
tiến bộ về mặt kỹ thuật, công nghệ của ngành sản xuất này tất yếu đũi hỏi phải cú sự phỏt triển tương ứng về mặt kỹ thuật, công nghệ của ngành khác, nhờ đó mới có thể tạo ra sản phẩm toàn vẹn của quá trỡnh sản xuất. Cũng do đó, sự thay thế trỡnh độ phát triển của lực lượng sản xuất ở trỡnh độ này bằng một trỡnh độ mới cao hơn giữa các ngành sản xuất diễn ra với một tốc độ và chu kỳ đổi mới hết sức nhanh chóng không chỉ trong phạm vi nền sản xuất của một quốc gia. Như vậy, trỡnh độ phát triển của lực lượng sản xuất ở ngành này lại phụ thuộc vào trỡnh độ phát triển của ngành khác, trong đó xét về tổng thể là mối quan hệ phụ thuộc về trỡnh độ phát triển kỹ thuật - công nghệ trong lực lượng sản xuất thuộc cơ cấu giữa ba ngành công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ không chỉ trong phạm vi mỗi quốc gia riêng biệt.
- Khái niệm “quan hệ sản xuất” dùng để khái quát mối quan hệ xó hội trong quỏ trỡnh sản xuất và tỏi sản xuất vật chất của một xó hội nhất định.
Mỗi quỏ trỡnh sản xuất và tỏi sản xuất vật chất chỉ có thể diễn ra được với sự kết hợp của tổng thể các mối quan hệ giữa con người với con người, trong đó mối quan hệ về mặt kỹ thuật, công nghệ mà nhờ đó có thể trực tiếp làm biến đổi các đối tượng vật chất tự nhiên thuộc về “lực lượng sản xuất”, cũn mối quan hệ về mặt xó hội giữa con người với con người trong quá trỡnh đó thuộc về “quan hệ sản xuất”; trong đó, nội dung chính của nó là mối quan hệ kinh tế, mặc dự mối quan hệ kinh tế nào trong xó hội được tổ chức dưới hỡnh thức nhà nước cũng cần có nội dung pháp lý để đảm bảo tính thực thi của nó vốn thuộc về thượng tầng kiến trúc của xó hội. Mối quan hệ kinh tế là mối quan hệ liên kết giữa con người với con người trong quá trỡnh sản xuất và tỏi sản xuất nhằm mục đích thực hiện lợi ích vật chất có được trong quỏ trỡnh đó.
Từ sự phân tích trên, có thể định nghĩa vắn tắt: Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người nảy sinh trong quá trỡnh sản xuất và tỏi sản xuất vật chất của xó hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt là: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức - quản lý quỏ trỡnh sản xuất và quan hệ phõn phối kết quả của quỏ trỡnh sản xuất ấy. Ba mặt đó của quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trũ quyết định.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người với nhau trong việc xác định các tư liệu sản xuất thuộc về ai với nội dung cơ bản là tập hợp của các quyền:
chiếm hữu, sử dụng, mua bán, chuyển nhượng,… Tập hợp các quyền đó có thể mang một hỡnh thức phỏp lý nhất định được bảo hộ bởi quyền lực quản lý của nhà nước hoặc theo thông lệ tập tục truyền thống trong các xó hội chưa có sự ra đời của bộ máy nhà nước.
Xét theo tính chất cơ bản của sở hữu, trong lịch sử nhân loại đó từng tồn tại hai loại quan hệ sở hữu, đó là sở hữu tư nhân và sở hữu cộng đồng xó hội về tư liệu sản xuất.
Mỗi loại sở hữu đó lại có thể tồn tại với những hỡnh thức phù hợp với mỗi điều kiện lịch sử - cụ thể.
Trong các quốc gia có sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại có sự tồn tại của nhiều loại hỡnh sở hữu đan xen hỗn hợp tạo thành một hệ thống cơ cấu sở hữu thống nhất trong tính đa dạng của nó: sở hữu tư nhân tư bản (quy mô lớn và nhỏ), sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp trong các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần,…
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hỡnh thành quan hệ tổ chức - quản lý quỏ trỡnh sản xuất và quan hệ phõn phối kết quả của quỏ trỡnh đó. Hai loại hỡnh quan hệ này luụn cú tỏc động trở lại quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Sự tác động đó có thể theo những chiều hướng khác nhau, tạo những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa nội dung vật chất và hỡnh thức kinh tế của quỏ trỡnh sản xuất; đó cũng là mối quan hệ thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, trên cơ sở quyết định của lực lượng sản xuất, tạo thành nguồn gốc và động lực cơ bản của quá trỡnh vận động, phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử. Đó cũng chính là nội dung cơ bản của quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trỡnh độ phát triển của lực lượng sản xuất” - quy luật cơ bản nhất của quá trỡnh phỏt triển xó hội.
Thứ nhất, sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai phương diện cơ bản, tất yếu của mỗi phương thức sản xuất - mỗi quá trỡnh sản xuất nhất định, do đó chúng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, chi phối lẫn nhau trong quỏ trỡnh sản xuất của xó hội. Núi cỏch khỏc, mỗi phương thức sản xuất hay mỗi quá trỡnh sản xuất khụng thể tiến hành được
dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ của quá trỡnh này, cũn quan hệ sản xuất đóng vai trũ là hỡnh thức kinh tế của quỏ trỡnh đó. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là mối quan hệ tất yếu giữa nội dung vật chất và hỡnh thức kinh tế của cựng một quỏ trỡnh sản xuất khỏch quan của xó hội.
Thứ hai, vai trũ quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai trũ quyết định đối với quan hệ sản xuất. Nói cách khác, quan hệ sản xuất phụ thuộc tất yếu vào trỡnh độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tính quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể hiện trên hai mặt thống nhất với nhau:
lực lượng sản xuất nào thỡ quan hệ sản xuất đó và cũng do đó, khi lực lượng sản xuất có những thay đổi thỡ cũng tất yếu sẽ đũi hỏi phải cú những thay đổi nhất định đối với quan hệ sản xuất trên các phương diện sở hữu, tổ chức - quản lý và phõn phối. Sự thay đổi này có thể diễn ra với sự nhanh chậm khác nhau, mức độ khác nhau, phạm vi khác nhau,... nhưng tất yếu sẽ diễn ra những thay đổi nhất định bởi vỡ những quan hệ sản xuất chỉ là hỡnh thức kinh tế của quỏ trỡnh sản xuất, cũn lực lượng sản xuất đóng vai trũ là nội dung vật chất của quỏ trỡnh đó.
Thứ ba, vai trũ tỏc động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất Với tư cách là hỡnh thức kinh tế của quỏ trỡnh sản xuất, quan hệ sản xuất luụn cú khả năng tác động trở lại, ảnh hưởng trở lại đối với việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất thể hiện rừ nhất trờn phương diện các quan hệ tổ chức, quản lý quỏ trỡnh sản xuất của xó hội. Quỏ trỡnh tỏc động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất có thể diễn ra với hai khả năng: tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực. Khi mà quan hệ sản xuất phù hợp với nhu cầu khách quan của việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển của lực lượng sản xuất thỡ nú cú tỏc dụng tớch cực thỳc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược lại, nếu trái với nhu cầu khách quan đó thỡ nhất định sẽ diễn ra quá trỡnh tỏc động tiêu cực.
Trong đời sống hiện thực kinh tế, có 3 tiêu thức cơ bản để nhận định sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất: 1) lực lượng sản xuất hiện có của xó hội cũng như của mỗi chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế có được bảo tồn - duy trỡ hay khụng; 2) lực lượng sản xuất của xó hội, của mỗi chủ thể kinh tế cú được huy động tối
đa (về lượng) và sử dụng có hiệu quả (về chất) hay không; 3) do đó, lực lượng sản xuất đó có được thường xuyên tái tạo và phát triển hay không. Trong thực tiễn kinh tế, các tiêu thức cơ bản này lại có thể được chi tiết hóa và có thể có những thước đo hoặc các chỉ số đánh giá cụ thể; thí dụ, có thể dùng chỉ số tăng trưởng kinh tế (GDP) hoặc các chỉ số khác như: GNP, HDI,... để xác định theo các thời kỳ nhất định của mỗi quốc gia, chẳng hạn theo chu kỳ mỗi năm.
Thứ tư, sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - nguồn gốc, động lực cơ bản của sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thuộc phạm trù “mâu thuẫn” trong phép biện chứng duy vật, tức là mối quan hệ thống nhất của hai xu hướng có khả năng vận động trái ngược nhau. Sự vận động của mâu thuẫn này là đi từ sự thống nhất đến những khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất kỡm hóm sự phỏt triển đó, khi đó bắt đầu nhu cầu của những cuộc cải cách, hoặc cao hơn là một cuộc cách mạng, nhằm thực hiện sự cải biến những quan hệ sản xuất hiện thời theo hướng làm cho nó phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp mới của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác nhận định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xó hội mõu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện cú, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là hỡnh thức phỏt triển của cỏc lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất đó trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của những cuộc cách mạng”11. Sở dĩ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất của các mặt đối lập là vỡ cú sự khỏc nhau về tớnh chất biến đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất có xu hướng “động”, cũn quan hệ sản xuất thỡ ngược lại có xu hướng “tĩnh”. Xu hướng động và tĩnh của hai phương