2.3. Tình hình quản lý công nợ phải thu tại công ty cổ phần gas
2.3.3. Đánh giá tình hình quản lý công nợ phải thu tại công ty cổ phần
2.3.3.1. Đánh giá tình hình quản lý công nợ phải thu trong hạn a. Hiệu quả trong quản lý công nợ phải thu trong hạn tại công ty
Công tác quản lý công nợ phải thu tại công ty diễn ra một cách chặt chẽ, nhịp nhàng, theo một trình tự nhất định đem đến hiệu quả cao trong quản lý vì thế công ty đã kiểm soát được những khoản phải thu, hạn chế tối đa những khoản nợ khó đòi. Từ năm 2003 đến 2005 công ty không phải xử lý bất cứ khoản nợ quá hạn nào mà doanh thu tiêu thụ hàng hoá vẫn tăng lên qua các năm.
Công ty luôn nhận được sự tín nhiệm của khách hàng đầu ra cũng như những khách hàng đầu vào. Từ đó công việc kinh doanh của công ty cũng diễn ra thuận lợi hơn.
b. Hạn chế trong quản lý:
Hạn chế lớn trong quản lý công nợ phải thu ở công ty chính là những thông tin từ phía khách hàng. Đôi khi những thông tin này không chính xác do khách hàng không muốn đưa ra tình hình hoạt động kinh doanh thực tế ở
doanh nghiệp của mình nhằm tranh thủ được vốn của công ty. Khi khách hàng đã cố tình giấu thì nhân viên trong công ty cũng khó có thể phát hiện ra được do hạn chế trong trình độ thẩm định của cán bộ nhân viên cũng như những hạn chế trong điều kiện đi sâu tìm hiểu thực tế về khách hàng.
Tuy công ty không phải thường xuyên xử lý các khoản nợ khó đòi nhưng vẫn luôn phải thúc giục khách hàng trả tiền đúng thời hạn do có nhiều khách hàng muốn chiếm dụng vốn của công ty (một khoản vốn có giá rẻ) nên đã kéo dài thời gian trả nợ. Hoặc có những khách hàng mới chưa tiếp cận được với thị trường khả năng tiêu thụ hàng còn thấp nên chưa có tiền hàng trả cho công ty ngay. Trường hợp này công ty cần phải có những biện pháp hỗ trợ cho khách hàng trong thời gian đầu, tạo điều kiện cho khách hàng làm quen với thị trường từ đó giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài với khách hàng. Đây là khó khăn ban đầu của công ty khi tiếp cận với khách hàng mới nhưng cũng là cơ hội để công ty thu hút thêm nhiều khách hàng mới mở rộng thị phần của công ty.
Việc quản lý công nợ phải thu trong những năm trước chưa tốt nên đã dẫn đến những khoản nợ khó đòi và cuối năm 2005 công ty đã phải trích lập trên 4 tỷ đồng cho “dự phòng nợ phải thu khó đòi” và đến năm 2006 công ty đã phải tiến hành xử lý nợ khó đòi.
2.3.3.2. Đánh giá tình hình quản lý công nợ phải thu quá hạn a. Hiệu quả đạt được
Bất cứ công ty nào khi đã tham gia vào thị trường kinh doanh đều mong muốn có một báo cáo tài chính lành mạnh nhất là đối với những công ty cổ phần, vì thế họ luôn quan tâm tới các khoản nợ phải thu để tránh xảy ra rủi ro tổn thất phải thu khó đòi. Công ty cổ phần gas Petrolimex đã trở thành công ty cổ phần từ năm 2003 nên công ty rất chú trọng đến công tác quản lý công nợ
và xử lý nợ khó đòi. Công ty luôn tìm mọi cách quản lý các khoản phải thu không để nó quá hạn. Do trong quá trình hoạt động công ty luôn theo dõi sát sao hoạt động của khách hàng, đồng thời luôn có những biện pháp thu tiền hợp lý khi sắp đến hạn thanh toán của khách hàng nên công ty rất ít khi phải xử lý nợ khó đòi. Tuy nhiên để tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá cho công ty, công ty đã đưa ra những chính sách nới lỏng những tiêu chuẩn tín dụng cho các khách hàng nên rủi ro dẫn tới nợ khó đòi cao. Năm 2006 công ty đã phải xử lý 2 khoản nợ khó đòi và đã xử lý xong. Sau khi trích từ dự phòng bù đắp cho nợ khó đòi, tức là công ty đã xoá nợ cho khách hàng, công ty vẫn tiếp tục theo dõi hoạt động của khách hàng vào tài khoản ngoại bảng để về sau có thể có cơ hội thu hồi nợ khi khách hàng có thể trả được (khi khách nợ có khả năng phát triển), và khoản thu hồi về sau này sẽ được kế toán hạch toán vào “thu nhập khác”.
b. Hạn chế trong quản lý công nợ phải thu quá hạn
Căn cứ vào những văn bản pháp lý và được cơ quan có thẩm quyền cho phép, doanh nghiệp đã xử lý các khoản nợ khó đòi như đã nêu ở trên. Công ty đã xử lý thành công 2 khoản nợ khó đòi trên nhưng trên thực tế năm 2005 công ty đã trích lập dự phòng lên tới trên 4 tỷ đồng trong khi công ty mới xử lý được 2 khoản nợ khó đòi với tổng giá trị xử lý được là gần 26 triệu đồng.
Như vậy công ty vẫn còn khá nhiều những khoản nợ khó đòi trong năm 2005 chưa xử lý được.
CHƯƠNG III