CHƯƠNG I: KHÁI LƯỢC VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA TRẦN THÙY MAI
1.2. Hành trình sáng tác của Trần Thùy Mai
Trần Thùy Mai sinh ngày 08/09/1954 trong một bệnh viện tại đất Hội An, Quảng Nam. Nhưng quê gốc lại ở làng An Ninh Thượng, xã Hương Long, huyện Hương Trà, (nay là phường Hương Long, Thành phố Huế), tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chị tâm sự: “Mẹ tôi là người Huế, vào Hội An làm việc. Bà sinh tôi ở đây rồi lại quay về Huế sống. Vì vậy, tôi sinh ra và lớn lên ở hai thành phố cổ.
Sau này tôi lại đƣợc đến nhiều nơi ở Thừa Thiên Huế và Quảng Nam để ghi chép dân ca, ca dao. Tôi rất cảm cái chất u ẩm, thầm kín của hò mái nhì Huế, yêu cái chất mãnh liệt nồng nàn của hò khoan Quảng Nam. Một bên thì mơ màng sương khói: “Lên non ngậm ngải tìm hương/ Em đây ở với người thương tới cùng”. Còn một bên thì dữ dội: “Tay em cầm con dao sắc, trao qua cái rổ, cắt cái cổ con kê/ Hai ta lên miếu mà thề/ Cạn sông lở núi đừng hề bỏ nhau… ”.
Ảnh hưởng của hai thành phố cổ thơ mộng, hiền hoà với tất cả cảnh vật, con người, văn hoá vật chất, tinh thần... sau này, qua sự quan sát, cảm nhận, chiêm nghiệm thấm thía của nhà văn đã đi vào sáng tác của chị rất tự nhiên, dung dị, nhẹ nhàng, khó quên. Trần Thùy Mai bắt đầu đƣợc các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng. Tốt nghiệp Tú tài 2 từ 1972, chị thi đậu thủ khoa môn văn Đại học Sƣ phạm Huế. Sau 1975, chị học tiếp Đại học Sƣ phạm.
Năm 1977, sau khi tốt nghiệp, Trần Thùy Mai được giữ lại trường, làm công tác giảng dạy và nghiên cứu môn Văn học dân gian. Năm 1987, chị quyết định chuyển sang làm biên tập viên ở Nhà xuất bản Thuận Hóa – Huế. Với lối rẽ này, Trần Thùy Mai đã chọn nghiệp viết làm con đường đi cho riêng mình.
Trần Thùy Mai là hội viên Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế, hội viên Hội nhà văn Việt Nam và hội viên Hội văn nghệ dân gian Việt Nam.
Là một phụ nữ không trọn vẹn trong tình yêu, lại gặp không ít khó khăn trong cuộc sống đời thường, nhưng văn chương với chị là một đam mê, vì thế chị đã thỏa sức dành cho nghệ thuật. Với ba sở thích uống café, đi chùa và viết văn, thì viết là máu thịt, là con người và cũng là cuộc sống của chị. Bằng một hành trình cuộc sống nhiều đa đoan và một tình yêu thương lớn lao cho con người, chị đã khiến bao thế hệ người đọc say mê trước những trang văn giàu nghị lực mà đầy nhân văn của mình.
1.2.2. Hành trình sáng tác
Hành trình sáng tác của Trần Thùy Mai đã bắt đầu những bước đi ngập ngừng từ thuở còn là một cô nữ sinh trường Đồng Khánh mơ mộng, yêu mùa đông xứ Huế, khi chị viết văn cho tờ Tuổi Hoa, hay lâu lâu viết bài thơ đăng báo. Năm 1975, khi chị 22 tuổi, Trần Thùy Mai có truyện ngắn đầu tiên đăng báo Văn nghệ và sự nghiệp văn chương của chị bắt đầu từ đó. Sau này, nhìn lại sáng tác của mình bấy giờ, chị nói: Còn trẻ nên truyện của mình dàn trải lắm. Rồi thời gian trôi qua, cô gái Huế dịu dàng này làm vợ, làm mẹ, trải nghiệm đủ mọi buồn vui, hạnh phúc và cay đắng trong cuộc đời, trang viết của chị đã sâu lắng, cô đọng và cũng dữ dội, quyết liệt hơn. Đặc biệt, hình ảnh người phụ nữ bất hạnh, chịu nhiều thua thiệt trong cuộc sống trở nên đậm nét.
Khát vọng tình yêu và hạnh phúc của họ cũng mãnh liệt, riết róng hơn trong sáng tác của chị. Trần Thùy Mai tâm sự: “Hồi còn trẻ mình cũng thích văn chương, thích viết. Nhưng có lẽ sau 40 tuổi thì mới biết viết văn phải trả giá bằng sự từng trải, trả giá bằng cả cuộc đời. Hình như khi người ta bị đổ vỡ lớn thì càng khao khát đến với thế giới nghệ thuật, giống như một sự nương tựa. Và có lẽ trong sự nương tựa đó mình lại viết được nhiều hơn, nhờ đó mà có thêm nhiều bạn đọc” (Báo Người đẹp Việt Nam).
Bản thân nhà văn là người phụ nữ rất nhạy cảm và tinh tế. Chị luôn sợ sự cô độc bởi nó đem đến cho chị cảm giác không yên ổn. Cuộc sống không bình lặng khiến Trần Thùy Mai luôn khao khát kiếm tìm niềm đồng cảm, sự sẻ chia để xua đi cảm giác cô đơn trống vắng trong lòng. Với chị, “viết văn là một cách để thương yêu” nên trên từng trang văn của chị luôn hiện hữu tấm lòng thương yêu và sự chan hoà với cuộc sống. Toàn bộ các nhân vật trong truyện ngắn của chị đều mang dáng dấp riêng và đƣợc nhà văn gửi gắm những tâm sự, suy nghĩ của mình về cuộc đời, về con người.
Không ồn ào vội vã chạy theo những thị hiếu tầm thường, Trần Thùy Mai lặng lẽ, kiên trì tạo được những bước đi vững chắc trong làng truyện ngắn. Chị viết chắc và khá đều tay. Trong những năm tháng làm giảng viên Đại học, chị vẫn viết đều đặn và cho ra đời tập truyện ngắn đầu tay, tập Bài thơ về biển khơi (1983). Sau đó một năm, Cỏ hát, tập truyện thứ hai của chị (in chung với Lý Lan) ra đời.
Văn chương có một ý nghĩa rất lớn đối với Thuỳ Mai. Nhờ viết văn mà chị cảm thấy cuộc đời đƣợc mở rộng, mình vƣợt qua đƣợc giới hạn chật hẹp của chính mình. Những năm đầu tiên cầm bút, chị coi viết văn là thú vui, đến khi đƣợc độc giả yêu thích thì chị: “Cầm bút với một sự hoảng sợ, sợ không làm hài lòng độc giả, sợ độc giả sẽ bỏ mình mà đi; viết mãi thì cũng nguôi sợ”. Đối với chị, khi tác phẩm đến đƣợc với độc giả, đƣợc độc giả đón nhận thì nỗi cô đơn trong lòng mình đƣợc nguôi ngoai.
Với ngọn lửa của lòng đam mê đƣợc yêu, đƣợc viết, đƣợc cùng sống với số phận mỗi nhân vật mà mình sáng tạo, Trần Thùy Mai liên tiếp cho ra đời các tập truyện ngắn để lại dấu ấn sâu đậm, có sức sống lâu bền trong lòng người đọc. Năm 1994, tập truyện ngắn Thị trấn hoa quỳ vàng ra mắt bạn đọc và sau đó, gần nhƣ đều đặn hàng năm chị đều có tác phẩm xuất bản: Trò chơi cấm (1998), Gió thiên đường (2000), Quỷ trong trăng (2002), Biển đời người
(2002), Thập tự hoa (2003), Đêm tái sinh (2004), Mưa đời sau (2005), Lửa hoàng cung (2007), Mưa ở Strasbourg (2007); Một mình ở Tôkyô (2008), Onkel yêu dấu (2010), Trăng nơi đáy giếng (2010). Sự ra đời của các tập truyện nhƣ là cách để nuôi dƣỡng ngòi bút và tri ân với độc giả. Với văn chương, Trần Thuỳ Mai không ồn ào, rất tĩnh lặng, nhẹ nhàng nhưng lại có sức lan toả và luôn có một lƣợng độc giả ổn định.
Cho đến nay, hơn 30 năm cầm bút với 12 tập truyện ngắn, 4 tác phẩm được chuyển thể thành phim và một số giải thưởng xứng đáng (Giải B, giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố đô lần thứ 2, (1998) cho tập truyện ngắn Thị trấn hoa quỳ vàng, Giải B của Hội nhà văn Việt Nam năm 2002 cho tập Quỷ trong trăng, giải C, giải thưởng Văn học thiếu nhi “Vì tương lai đất nước” của Nhà xuất bản Trẻ (2002) cho truyện dài thiếu nhi Người khổng lồ núi Bạc giải thưởng Văn học nghệ thuật năm 2003 của Uỷ ban toàn quốc các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam cho tập Thập tự hoa và giải thưởng hàng năm của hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế năm 2008 dành cho tập truyện Một mình ở TôKyô...), nhà văn Trần Thùy Mai đã thực sự tìm đƣợc chỗ đứng trong lòng độc giả. Người ta biết đến, tìm đến truyện ngắn của chị bởi sự nhẹ nhàng, lặng lẽ, tinh tế, sâu sắc trong con người và trong sáng tác của một nhà văn “giàu tính nữ bậc nhất trong làng truyện ngắn hiện nay”.
Bằng trái tim nhiệt huyết yêu nghề, yêu cuộc sống tha thiết, hành trình sáng tạo nghệ thuật của Trần Thùy Mai có lẽ vẫn còn rất dài rộng phía trước và chị sẽ vẫn tiếp tục cống hiến, khẳng định phong cách của mình trên tiến trình phát triển của văn xuôi đương đại.