CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC THỜI KỲ MỚI 1996 - 2006
2.2 Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới
2.2.2 Kết quả thực hiện
2.2.2.1 Thành tựu:
Nhìn chung, quá trình thực hiện đường lối văn hóa của Đảng ta thời kỳ đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và đáng khích lệ. Đặc biệt trong giai đoạn 1996 – 2006 đã đạt được một số thành tựu cơ bản như sau:
- Kiên trì quan điểm đúng đắn được xác định trong công cuộc đổi mới, coi văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động của sự phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực văn hóa tinh thần của xã hội, Nhà nước đã tích cực thể chế hóa các quan điểm của Đảng, thống nhất quản lý và triển khai sâu rộng, thường xuyên toàn bộ hoạt động văn hóa trong xã hội. Nhà nước từng bước nâng cao mức đầu tư ngân sách cho hoạt động văn hóa trong cả nước.
- Tiếp tục phát triển coi văn hóa là sự nghiệp của toàn dân. Trong điều kiện cơ chế thị trường, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn hóa… thị trường văn hóa ngày càng được mở rộng đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân và mở rộng giao lưu quốc tế.
- Việc chủ động trong việc xây dựng và phát triển văn hóa ở mỗi địa phương, mỗi cơ sở, mỗi cộng đồng dân cư được nâng lên. Ý thức tích cực chủ động phát huy vai trò của văn hóa, nâng mức đầu tư, bố trí cán bộ, mở rộng giao lưu văn hóa… tăng lên, nhờ đó khai thác tốt hơn các giá trị văn hóa tiềm tàng ở các địa phương, cơ sở, ở các tổ chức kinh tế - xã hội và ở người dân, tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa và nâng cao năng lực sáng tạo, thưởng thức văn hóa mới theo hướng hiện đại, dân chủ, nhân văn.
- Hệ thống các quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật về văn hóa trong phạm vi quốc gia cũng như các quy định, quy ước văn hóa do nhân dân các địa phương chủ động xây đã tăng cường một bước công tác quản lý nhà nước bằng luật pháp, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong xây dựng đời sống văn hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển trong lĩnh vực văn hóa thông tin, trên các lĩnh vực sáng tạo, phổ biến, kinh doanh các sản
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 60 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG phẩm văn hóa.
Các văn bản đó góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa, ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động kinh doanh văn hoá phẩm, đẩy lùi một bước các tệ nạn xã hội, từng bước khôi phục lại trật tự, kỷ cương trong văn hóa xã hội. Ngoài ra, trong lĩnh vực nếp sống, Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ văn hoá – Thông tin đã quan tâm đến việc xây dựng quy chế về lễ hội, lễ cưới, lễ tang, đồng thời mở rộng chủ trương xây dựng quy ước làng văn hóa, gia đình văn hóa, góp phần tăng cường quản lý xã hội với lĩnh vực này.
- Trong thời kỳ đổi mới, để thích ứng với sự thay đổi của thể chế kinh tế, thể chế chính trị đang diễn ra sâu rộng, cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động trên lĩnh vực văn hóa đã có nhiều thay đổi ngày càng tiến tới sự phù hợp với thể chế kinh tế, thể chế chính trị.
Đến nay tổ chức bộ máy ngành văn hoá – thông tin đã đi vào ổn đinh. Tổ chức bộ máy đó cơ bản đảm bảo được chức năng quản lý nhà nước về văn hóa – thông tin trên phạm vi cả nước.
-Việc tổ chức xây dựng quy ước văn hóa có tính tự quản ở các cộng đồng dân cư (làng xã, phường, gia đình) thời gian qua đã thu được những kết quả tích cực. Hàng nghìn bản hương ước cổ truyền của các làng xã đã được sưu tập và xuất bản. Đó là một kho kinh nghiệm quý báu các quy ước về văn hóa tinh thần ở làng xã Việt Nam rất cần được tìm hiểu và kế thừa, phát huy. Các bản quy ước văn hóa mới được xây dựng vừa phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, vừa tăng tính tự quản về văn hóa của cộng đồng dân cư.
- Hệ thống các thiết chế văn hóa được củng cố, xây dựng và ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động. Đến năm 2006 chúng ta có trên 600 cơ quan báo chí, 1 đài phát thanh quốc gia, 1 đài truyền hình quốc gia, 64 đài phát thanh - truyền hình tỉnh, thành phố, 45 nhà xuất bản, 114 nhà bảo tàng, 184 đoàn nghệ thuật, 29 hãng phim, 20.000 thư viện, 747 nhà văn hoá, 580 đội thông tin lưu động, 25.000 đội văn nghệ quần chúng, 50 trường đào tạo văn hoá - nghệ thuật, 500 cơ sở in, 125 công ty phát hành sách, cùng hàng nghìn đại lý bản lẻ sách báo[3; tr 375]… Hệ thống các thiết chế văn hóa đó đã góp phần đưa văn hoá thông tin về cơ sở, thoả mãn nhu cầu văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú của các tầng lớp nhân dân.
- Xã hội hóa các hoạt động văn hoá đã thu được những thành quả bước đầu ở một số lĩnh vực và một số địa phương. Bên cạnh lực lượng văn hóa do Nhà nước thành lập và hoạt động đã xuất hiện ngày càng nhiều hơn những tổ chức kinh tế - xã hội, các cá nhân tham
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 61 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG gia vào hoạt động sáng tạo, biểu diễn, phổ biến, truyền bá, kinh doanh văn hóa phẩm theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai sâu rộng tới các cộng đồng dân cư. Sự đóng góp nhân lực, vật lực, tài lực của xã hội cho các hoạt động văn hóa ngày càng được tăng cường, đã góp phần cùng Nhà nước tăng nhanh mức đầu tư vào hoạt động văn hóa. Quan hệ hợp tác quốc tế về văn hóa được mở rộng và nâng lên tầm cao mới, tạo ra nhiều nguồn bổ sung về văn hóa cho xã hội.
Nguyên nhân thành tựu:
Về khách quan:
- Cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng và đi sâu vào các lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, làm cho văn hóa có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, có nhiều luồng văn hóa tốt đẹp, mang tính chất hướng thiện được nhân dân tiếp thu mạnh mẽ.
- Lực lượng chiến sĩ hoạt động trên mặt trận tư tưởng văn hóa có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tâm huyết, óc sáng tạo và sự suy mê nghệ thuật cao; có tài quản lý và lãnh đạo giỏi, luôn nắm vững cái gốc chân - thiện - mỹ để đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới.
- Được sự ủng hộ và nhiệt tình giúp đỡ của các nước bạn trên thế giới về vốn và cơ sở vật chất nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa.
Về chủ quan:
- Đảng ta có đường lối, chủ trương đúng đắn; các Nghị quyết Đại hội của Đảng với tinh thần tiếp tục đổi mới đã được cụ thể hóa phù hợp với thực tiễn trong các Nghị quyết của Trung ương và được thể chế hóa theo hướng xây dựng đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; sự chỉ đạo, điều hành có hiệu quả của Chính phủ; sự năng động và quyết tâm của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp khắc phục khó khăn để hoàn thành thắng lợi các kế hoạch đề ra.
- Kết quả đầu tư nhiều năm qua, cùng với sự huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong nước và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc xây dựng phát triển nền văn hóa.
- Đảng ta đã có cách nhìn đúng đắn và thiết thực hơn về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; luôn nhất quán với quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 62 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG kinh tế - xã hội”. Từ đó có nhiều hoạt động nhằm đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa. [24, tr 123]
2.2.2.2 Hạn chế:
Tuy nhiên, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa ở nước ta trong thời gian qua cũng còn bộc lộ không ít yếu kém:
- Hệ thống pháp luật ban hành còn chậm, thiếu đồng bộ, đã ảnh hưởng tới quá trình điều chỉnh hoạt động văn hóa trong điều kiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Quản lý nhà nước còn lỏng lẻo về nghiệp vụ và hữu khuynh trong xem xét xử lý vi phạm dẫn đến chậm lập lại trật tự kỷ cương trong hoạt động văn hóa. Sách in lậu, băng hình độc hại, tình trạng mê tín dị đoan, karaoke, vũ trường “trá hình” trong xã hội chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn,… gây ra những lo lắng trong nhân dân. Văn hóa phẩm nước ngoài tác động khá phức tạp lên đời sống văn hóa trong nước.
- Quản lý nhà về nhà nước – thông tin còn có sự chồng chéo, trùng lặp chức năng, dẫn đến tình trạng buông lỏng, hoặc cát cứ. Việc phân định chức năng, quyền hạn và trách nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa – thông tin với các cơ quản lãnh đạo, quản lý khác về tư tưởng văn hóa còn chưa thực sự rõ ràng để hướng tới hiệu quả cao nhất.
- Việc xây dựng hoàn thiện thể chế và thiết chế văn hóa ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức. Trên 10.000 cơ sở xã, phường và ngay cả ở cấp huyện đến nay vẫn chưa có được tổ chức ổn định về bộ máy, cán bộ, ngân sách và các thiết chế văn hóa cần thiết.
- Việc sắp xếp tổ chức lại bộ máy hành chính, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị nghệ thuật, các doanh nghiệp (kinh doanh) trong ngành văn hóa – thông tin còn chậm; nhiều đơn vị còn lúng túng, chưa tìm được phương hướng phát triển trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoặc vẫn còn bám giữ tư tưởng bao cấp bình quân, hoặc buông lỏng thả nổi cho thị trường…
- Việc thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực hoạt động văn hóa nghệ thuật còn chậm, nhiều lúng túng, bất cập, có lúc rơi vào nguy cơ chệch hướng (thương mại hóa).
- “Việc xây dựng thể chế văn hóa còn chậm và nhiều thiếu sót. Chính sách xã hội hoá các hoạt động văn hóa chậm được ban hành. Bộ máy tổ chức ngành văn hóa chưa được sắp xếp hợp lý để phát huy cao hơn hiệu lực lãnh đạo và quản lý.
Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng yêu cầu, còn hẫng hụt cán bộ văn hóa ở các vị trí quan trọng.
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 63 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển văn hóa còn chưa rõ. Hệ thống các thiết chế văn hóa cần thiết nói chung bị xuống cấp và sử dụng văn hóa cần thiết nói chung bị xuống cấp và sử dụng kém hiệu quả.
Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, đời sống văn hóa còn nghèo nàn”.
Nguyên nhân hạn chế:
Về khách quan:
- Sự sụp đổ ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã gây xáo động lớn về tư tưởng, tình cảm trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Các thế lực thù địch ráo riết chống phá ta trên mặt trận tư tưởng văn hoá nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình”.
- Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động tích cực to lớn, cũng đã bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến ý tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta.
- Nước ta còn nghèo, nhu cầu văn hóa của nhân dân rất lớn nhưng khả năng đáp ứng còn hạn chế do thiếu những điều kiện và phương tiện vật chất cần thiết.[10; tr 159]
Về chủ quan:
- Trong khi trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, Đảng ta chưa lường hết những tác động tiêu cực nói trên, từ đó chưa đặt đúng vị trí của văn hóa, chưa coi trọng công tác giáo dục về tư tưởng, đạo đức và lối sống, thiếu các biện pháp cấp thiết trên cả hai mặt “xây” và
“chống” trên lĩnh vực văn hóa. Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa trong quá trình đổi mới, trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế… Chưa xây dựng được chiến lược phát triển văn hóa song song với chiến lược phát triển kinh tế.
- Việc xử lý những phần tử thoái hóa biến chất trong Đảng và bộ máy Nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ đảng. Nội dung giáo dục tư tưởng, chính trị trong sinh hoạt đảng và các đoàn thể rất yếu. Những điều đó làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ, nhưng Trung ương và Bộ Chính trị, Chính phủ chưa có những biện pháp khắc phục hữu hiệu.
- Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu khuynh.
Trong hoạt động kinh tế, chưa chú ý đến các yếu tố văn hóa, các yêu cầu phát triển tương
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 64 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG ứng. Mức đầu tư ngân sách cho văn hóa còn thấp. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ làm công tác văn hóa còn nhiều bất hợp lý. Những lệch lạc và những việc làm sai trái trong văn hóa, văn nghệ chưa được kịp thời phát hiện, việc xử lý bị buông trôi hoặc có khi lại dùng những biện pháp hành chính không thích hợp. Không ít cán bộ các cơ quan quản lý văn hoá ỷ lại, dựa dẫm, tự bằng lòng với một số hoạt động nghiệp vụ văn hóa trong phạm vi ngân sách nhà nước chu cấp, tài trợ mà chưa quan tâm quản lý và hướng dẫn cả xã hội, toàn dân tham gia tiến hành hoạt động văn hóa. Vì vậy, những mặt tích cực cũng như mặt tiêu cực trong đời sống văn hóa chưa được xem xét thúc đẩy hoặc ngăn chặn kịp thời.
- Chưa có cơ chế và chính sách phát huy nội lực của nhân dân; chưa tạo được phong trào quần chúng mạnh mẽ tham gia phát triển văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh, bảo vệ văn hóa dân tộc. Chưa coi trọng bồi dưỡng, giáo dục và phát huy khả năng của tuổi trẻ là lực lượng chính, là đối tượng chủ yếu của hoạt động văn hóa.
- Hệ thống pháp luật, thể chế và tổ chức bộ máy văn hóa chưa chuyển kịp với cơ chế thị trường. Nhà nước chưa xây dựng được một chế độ phân phối hợp lý, chưa có chính sách, biện pháp có hiệu lực để ngăn chặn thu nhập phi pháp và điều tiết mức thu nhập từ những hoạt động kinh tế.[10; tr 160]