2.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại tại Tòa án
2.2.1. Thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại tại Tòa án
Thứ nhất về thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án
Theo Điều 30 BLTTDS năm 2015, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp KD, TM sau đây:
“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động KD, TM giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên của công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty;
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sát nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức của công ty;
5. Các tranh chấp khác về KD, TM, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”.
Các quy định của Điều 30 BLTTDS năm 2015 được xây dựng theo cách liệt kê các tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án và kết thúc bằng một điều khoản cuối mang tính bao quát, dự phòng cho những trường hợp luật quy định còn thiếu, chưa liệt kê ra hết, bởi trong thực tế các tranh chấp KD, TM ngày càng đa dạng và phức tạp. Nhà làm luật đã quy định các trường hợp thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức khác để Tòa án dựa trên những nét đặc thù riêng biệt của các quan hệ tranh chấp mà xác định đúng thẩm quyền giải quyết của mình. Ví dụ như các quan hệ cạnh tranh sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh năm 2018 do Ủy ban cạnh tranh giải quyết.
31
So với BLTTDS năm 2004 chỉ quy định: “Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty” (Khoản 3, Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự, 2004). BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm một số tranh chấp như là: “Tranh chấp giữa người quản lý công ty với công ty; tranh chấp có liên quan đến việc bàn giao tài sản của công ty phát sinh trong công ty”.
Bộ luật Tố tụng dân sự chỉ nêu ra một số quy định khái quát nên một số vấn đề còn khá khó hiểu. Do đó, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, ban hành ngày 03 tháng 12 năm 2012 bổ sung một số quy định hướng dẫn cụ thể về “tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty và giữa các thành viên của công ty với nhau”.
Với các quy định của pháp luật nêu trên, nội dung dưới đây sẽ chỉ ra một số bất cập hạn chế như sau:
Thứ nhất, bất cập hạn chế về việc xác định chủ thể đăng ký kinh doanh
Pháp luật quy định chủ thể tham gia quan hệ tranh chấp KD, TM phải là những cá nhân hoặc tổ chức có đăng ký kinh doanh. Tức là các chủ thể đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế một số chủ thể trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã diễn ra hoạt động KD, TM nhưng đến khi tranh chấp xảy ra thì họ đã được cấp. Cũng có một số trường hợp đã có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng khi tranh chấp xảy ra thì giấy chứng nhận đã bị thu hồi. Ngoài ra hoạt động KD, TM vượt ra ngoài phạm vi quy định trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, khi xảy ra tranh chấp thì đó có phải là tranh chấp kinh doanh, thương mại hay không?
Thứ hai, bất cập về quy định mục tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận là mục đích hàng đầu và tiên quyết để xác định đó có phải là tranh chấp KD, TM hay không. Việc thu được lợi nhuận cao hay thấp, thậm chí không thu
32
được lợi nhuận, thua lỗ thì vẫn được xem là các bên có mục đích lợi nhuận. Hiện nay, cách xác định mục tiêu khi các bên tham gia quan hệ KD, TM là để tiêu dùng, sinh hoạt hay lợi nhuận không phải là điều dễ dàng bởi kể từ khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực, đến nay vẫn chưa có văn bản mới nhất hướng dẫn lại về khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015. Các thẩm phán phải tham khảo từ Nghị quyết 03/2012 của Hội đồng Thẩm phán.
Thứ ba, bất cập, hạn chế về quy định phần vốn góp với công ty, thành viên công ty
Mặc dù BLTTDS năm 2004 không quy định về tranh chấp giữa người chưa phải thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty. Nhưng nhà làm luật đã sửa đổi bổ sung thêm các tranh chấp phát sinh từ giao dịch chuyển nhượng phần vốn góp vào BLTTDS năm 2015 để phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, tại khoản 27 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định phần vốn góp chỉ áp dụng với hai loại hình doanh nghiệp đó là công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn: “Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh.
Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh” (Luật Doanh nghiệp, 2020). Như vậy, BLTTDS sẽ thiếu đi giao dịch về chuyển nhượng vốn góp của các loại hình doanh nghiệp khác, chẳng hạn như công ty cổ phần. Điều này chứng tỏ giữa Luật chuyên ngành và Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn đang còn một số điểm chưa có sự thống nhất với nhau.
Thứ tư, bất cập, hạn chế về việc xác định trường hợp cá nhân đã nộp tiền mua phần vốn góp cổ phần của công ty nhưng chưa được đăng ký để trở thành thành viên cổ đông công ty là tranh chấp gì? Vấn đề này, có nhiều quan điểm cho rằng đây là tranh chấp mua bán phần vốn góp cổ phần giữa cá nhân với công ty hoặc giữa cá nhân người mua với cá nhân khác là thành viên của công ty chứ không phải là tranh chấp giữa các thành viên công ty với công ty hoặc giữa các thành viên công ty với nhau, vì cá nhân người mua trên không phải là thành viên của công ty. Cũng có ý kiến cho rằng, đây là quan hệ đều nhằm mục đích lợi nhuận. Nếu các chủ thể đều đăng ký kinh
33
doanh thì đây có thể xác định là tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015.
Pháp luật hiện nay rất đa dạng và có nhiều sự thay đổi nên tranh chấp KD, TM không chỉ thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTDS mà còn có sự tham gia của các luật chuyên ngành khác như Luật Thương mại, Luật Doanh Nghiệp, Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Kinh doanh bất động sản,…Trong thực tế, có nhiều vụ án có nội dung tương tự nhau nhưng mỗi Tòa án lại lựa chọn áp dụng luật khác nhau bởi luật pháp không có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Vậy nên, cần chú ý phân biệt giữa tranh chấp KD, TM với các tranh chấp dân sự, lao động. Thông thường các tranh chấp nội bộ công ty liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, chia, tách, hợp nhất, chuyển đổi hình thức công ty sẽ là tranh chấp KD, TM. Còn các tranh chấp khác cũng phát sinh trong nội bộ công ty như tranh chấp về hợp đồng lao động, hợp đồng vay mượn tài sản, bảo hiểm xã hội,…là các tranh chấp về dân sự hoặc tranh chấp về lao động...
Thứ hai, thẩm quyền theo cấp của Tòa án
Căn cứ vào tính chất phức tạp của vụ việc, điều kiện và khả năng giải quyết tranh chấp phát sinh của từng cấp Tòa án để xác định thẩm quyền. Việc xét xử sơ thẩm các vụ án tranh chấp KD, TM diễn ra ở TAND cấp huyện hoặc TAND cấp tỉnh.
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp KD, TM quy định tại Điều 35 BLTTDS năm 2015 và khoản 1 Điều 30 Bộ luật này. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD, TM của TAND cấp tỉnh được quy định tại Điều 37, 38 BLTTDS năm 2015, trừ những trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện. Trong phạm vi không gian của đề tài, tôi sẽ tập trung tìm hiểu về thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD, TM của Tòa án cấp huyện nói chung và Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh nói riêng.
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những vụ án tranh chấp KD, TM mang tính chất đơn giản và không có thẩm quyền giải quyết đối với các vụ án có yếu tố nước ngoài như: “đương sự ở nước ngoài, có tài sản ở nước ngoài, cần có sự ủy thác tư pháp cho Tòa án nước ngoài hay cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài” (Bộ luật Tố tụng dân sự , 2015).
34
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện được quy định tại Điều 45 Luật Tổ chức TAND năm 2014: “Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách” (Luật Tổ chức Toà án nhân dân, 2014).
Ở đây xuất hiện việc thành lập các Tòa án chuyên trách nhưng dựa theo hướng dẫn của Thông tư số 01/2016 của Chánh án TAND tối cao và văn bản hướng dẫn số 798 của TAND tối cao về việc tổ chức Tòa chuyên trách, dựa trên điều kiện đã được lược hóa, TAND cấp huyện không bắt buộc phải thành lập Tòa án chuyên trách. Khi có tranh chấp KD, TM xảy ra Tòa án nhân dân cấp huyện có thể giải quyết mà không cần lập Tòa án kinh tế.
Thứ ba, thẩm quyền theo lãnh thổ
Thẩm quyền giải quyết các vụ án tranh chấp KD, TM theo lãnh thổ được xác định cụ thể như sau:
“Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp kinh doanh, thương mại;
Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại;
Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết” (Khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Trong trường hợp này, đương sự trong các vụ án tranh chấp KD, TM được quy định tại khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015 bắt buộc là cá nhân, tổ chức có đăng ký
35
kinh doanh với nhau nên việc xác định nơi cư trú, làm việc của cá nhân hoăc trụ sở của tổ chức có thể xác định theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
So với BLTTDS năm 2004 quy định không chi tiết, rõ ràng, khiến cho đương sự hiểu rằng có thể lựa chọn Tòa án nơi có bất động sản hoặc không lựa chọn. Thì BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung thêm từ “chỉ” khẳng định rõ ràng đối với đối tượng là bất động sản thì chỉ có Tòa án nơi bất động sản hiện diện mới có thẩm quyền giải quyết mà thôi. Quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu thập thông tin, tài liệu, tính hợp pháp về tài sản; giúp cho Tòa án dễ dàng giám sát, kiểm tra, đánh giá đối tượng tranh chấp; đảm bảo tính hiệu quả trong việc xét xử, tiết kiệm được thời gian và chi phí trong việc giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Theo Điều 40 BLTTDS năm 2015 quy định nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD, TM như sau:
- “Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết”.
Nơi ở và nơi làm việc có thể dễ dàng thay đổi nên việc xác định sẽ gặp nhiều khó khăn. Khi không thể xác minh được nơi làm việc, cư trú cuối cùng của bị đơn thì có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn có tài sản giải quyết. Đối với bị đơn là cơ quan, tổ chức thì việc xác định trụ sở thông qua giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Trong trường hợp nguyên đơn không biết, không tìm thấy giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của bị đơn thì có thể thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xác định, hoặc tìm kiếm thông qua hệ thống dữ liệu doanh nghiệp của Việt Nam.
Đồng thời nguyên đơn phải chứng minh được việc bị đơn cố tình thay đổi nơi cư trú liên tục hoặc cố tình che dấu trụ sở, nơi làm việc và cung cấp cho Tòa án các bằng chứng để chứng minh nơi cư trú, nơi làm việc cuối cùng của bị đơn là chính xác.
36
- “Tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết”
(Điểm b, khoản 1, Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Khi tranh chấp phát sinh từ hoạt động KD, TM của chi nhánh thì Tòa án nơi có chi nhánh sẽ thuận tiện hơn trong việc tiếp cận vụ việc và thu thập thông tin, chứng cứ. Nếu khoảng cách giữa chi nhánh và trụ sở chính cách xa nhau thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án mà mình thấy thuận lợi hơn trong việc di chuyển, tham gia tố tụng để nộp đơn khởi kiện. Tuy nhiên, cần chú ý xác định đúng tư cách của đương sự trong tranh chấp có liên quan đến chi nhánh, bởi “Chi nhánh là một bộ phận thuộc pháp nhân, chi nhánh không có tư cách pháp nhân, người đứng đầu chi nhánh chỉ thực hiện các nhiệm theo ủy quyền của pháp nhân và pháp nhân sẽ có các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do chi nhánh thực hiện” (Điều 84 Bộ luật Dân sự 2015).
Ngoài ra còn có một số trường hợp khác như: “Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết; Các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;
Tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết”
(Điểm g, h, i, Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).