5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.2.4. Các kết quả nghiên cứu về mật độ gieo trên Thế giới và Việt Nam
1.2.4.1. Nghiên cứu mật độ lúa trên Thế giới
Mật độ cấy là một biện pháp kỹ thật canh tác quan trọng, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, dinh dưỡng, đặc điểm của giống. Suichi (1985) [104] đã khẳng định, trong ruộng lúa cấy, khoảng cách thích hợp cho lúa đẻ nhánh khoẻ và sớm thay đổi từ 20 x 20cm đến 30 x 30cm. Theo ông, việc đẻ nhánh chỉ xảy ra đến mật độ 300 cây/m2, nếu tăng số dảnh cấy lên nữa thì chỉ có những dảnh chính cho bơng. Năng suất tăng khi mật độ cấy tăng lên 182 - 242 dảnh/m2. Số bơng trên đơn vị diện tích cũng tăng theo mật độ, nhưng lại giảm số hạt trên bông. Mật độ sạ cấy thực tế là vấn đề tương quan giữa số dảnh cấy và sự đẻ nhánh. Thường sạ cấy thưa thì cây lúa đẻ nhánh nhiều, cấy dày thì đẻ nhánh ít. Trong phạm vi khoảng cách cấy từ 50 x 50 cm đến 10 x 10 cm, khả năng đẻ nhánh có ảnh hưởng đến năng suất. Ơng thấy rằng, năng suất hạt của giống IR-154-451 (một giống có khả năng đẻ nhánh ít) tăng lên với việc giảm khoảng cách cấy 10 x 10cm. Đối với giống có khả năng đẻ nhánh khoẻ (IR8) năng suất đạt cực đại ở khoảng cách cấy 20 x 20cm.
Những nghiên cứu của IRRI cho thấy khoảng cách tối ưu cho năng suất tối đa tùy thuộc vào giống, độ phì của đất và thời vụ sạ trồng. Nói chung, cây lúa trong mùa mưa nên trồng thưa hơn trong mùa khơ bởi vì trong mùa mưa, cây có khuynh hướng mọc nhiều lá và chồi. Những giống cao cây, nhiều lá dễ đổ ngã nên sạ thưa hơn giống
thấp cây, kháng đổ ngã ở bất kỳ mùa vụ nào. Khoảng cách cây khơng hợp lý có thể làm giảm năng suất từ 25 - 30%.
Theo Jennings và cs (1979) [97], năng suất hạt tùy thuộc vào khả năng cho năng suất, tính kháng sâu bệnh, khả năng thích nghi đối với điều kiện môi trường, kỹ thuật canh tác và nhiều yếu tố khác. Đối với mật độ, khoảng cách chuẩn giữa các hàng lúa sạ là 30 cm. Ở khoảng cách hàng rộng hơn cỏ dại sẽ mọc nhiều, khó phân biệt giữa cây có dạng tốt và dạng xấu. Đa số các thí nghiệm cho thấy những dịng cho năng suất cao nhất chắc chắn sẽ cho năng suất cao hơn khi khoảng cách hàng gia tăng đến 30 cm.
1.2.4.2. Kết quả nghiên cứu về mật độ lúa ở Việt Nam
Theo Phạm Văn Cường, Hà Thị Minh Thuỳ (2006) [26], mật độ ảnh hưởng đến chỉ số diện tích lá của lúa lai và lúa thuần khác nhau. Lúa lai có chỉ số diện tích lá đạt cực đại sớm hơn và giảm chậm, cịn lúa thuần thì ngược lại cực đại đạt muộn hơn và giảm nhanh chóng. Lúa thuần với mật độ cấy dày (70 khóm/m2) có tốc độ tích luỹ chất khơ (CGR) cao hơn so với mật độ cấy thưa, tuy nhiên ở giai đoạn trỗ và chín sáp CGR khi cấy mật độ 50 khóm/m2 lại cao nhất.
Theo Nguyễn Như Hà (2006) [35], kết luận: tăng mật độ cấy làm cho việc đẻ nhánh của một khóm giảm. So sánh số dảnh cấy trên khóm của mật độ cấy thưa 45 khóm/m2 và mật độ cấy dày 85 khóm/m2 thì thấy số dảnh đẻ trong một khóm lúa ở cơng thức cấy thưa lớn hơn 0,9 dảnh/khóm (ở vụ Xuân) và tăng lên 1,9 dảnh/khóm (ở vụ Mùa). Về dinh dưỡng, khi tăng lượng đạm bón ở mật độ cấy dày có tác dụng tăng tỷ lệ dảnh hữu hiệu. Tỷ lệ dảnh hữu hiệu tăng tỷ lệ thuận với mật độ đến 65 khóm/m2 ở vụ Mùa và 75 khóm/m2 ở vụ Xuân. Tăng bón đạm ở mật độ cao khoảng 55 - 65 khóm/m2 làm tăng tỷ lệ dảnh hữu hiệu.
Theo Nguyễn Văn Hoan (2003) [41], với các giống lúa lai nên cấy 2-3 dảnh với mật độ 50-55 khóm/m2 và cấy 3-4 dảnh với mật độ 40-45 khóm/m2.
Việc nghiên cứu về mật độ đã cũng cố thêm về quy trình thâm canh cho cây lúa. Năng suất các giống lúa được cải thiện đáng kể thông qua việc điều chỉnh chế độ canh tác như chế độ bón phân và mật độ gieo cấy. Bố trí mật độ hợp lý nhằm tận dụng nguồn năng lượng ánh sáng mặt trời, hạn chế sâu bệnh hại và tạo tiền đề cho năng suất cao.