nhau đã ảnh hưởng đến các hoạt động ngoài trời và như vậy là ảnh hưởng đến các hoạt động xã hội ngồi trời.
Ở châu Âu, vẫn cịn tồn tại những thành phố được bảo tồn tốt từ hầu như tất cả các thời kì trong một nghìn năm qua. Có rất nhiều thành phố Trung Cổ đã tiến hố một cách tự do. Có rất nhiều những thành phố theo phong cách Phục hưng và Barocco, những thành phố từ giai đoạn đầu của thời kì cơng nghiệp hố, các thành phố vườn khởi nguồn từ chủ nghĩa Lãng mạn và nhất là những thành phố do ôtô thống trị theo chủ nghĩa Chức năng (Công năng) của năm mươi năm qua. Ngày nay có thể so sánh và đánh giá các thành phố ấy trên cùng một cơ sở bởi chúng vẫn đang được sử dụng.
Về hình thức, có vẻ như có nhiều sự thay đổi tồn tại giữa những mơ hình thành phố khác nhau, nhất là trên quan điểm lịch sử nghệ thuật, còn trên thực tế chỉ có hai sự phát triển cấp tiến đáng lưu ý trong các cuộc bàn cãi hiện thời về các hệ tư tưởng quy hoạch đô thị và những hoạt động ngoài trời được diễn ra: một liên quan đến phong cách Phục hưng và một liên quan đến trào lưu chủ nghĩa Chức năng.
Quy hoạch chuyên nghiệp như ngày nay, theo đó các chuyên gia thiết kế thành phố trên giấy và trên mơ hình để xây dựng và sau đó phân bố hồn tồn cho khách hàng, có nguồn gốc ở thời Phục hưng. Sự tồn tại của các thành phố Hy Lạp và La Mã đã chứng tỏ quy hoạch và các nhà quy hoạch đã tồn tại trong một số thời kì trước kia ngoại trừ một nhóm nhỏ các thành phố thuộc địa được quy hoạch cuối thời Trung Cổ, các thành phố đã phát triển trong thời kì từ khoảng năm 500 đến 1500 (thuộc Công nguyên) đã không được quy hoạch theo Cuộc sống giữa
những cơng trình kiến trúc và hệ tư tưởng quy hoạch đơ thị.
I.4. Những hoạt động ngồi trời và các xu hướng kiến trúc xu hướng kiến trúc
Thời Trung Cổ
- khía cạnh tự nhiên và khía cạnh xã hội.
PiazzadelCampo(QuảngtrườngCampo),Siena,Italia.
Trung tâm thành phố Siena, Italia. Mặt bằng tỉ lệ 1:4000
Thời kì Phục hưng
- các khía cạnh thị giác.
đúng nghĩa của nó. Chúng đã phát triển ở nơi có nhu cầu, được định hình bởi cư dân của thành phố trong quá trình trực tiếp xây dựng thành phố.
Đáng lưu ý là những thành phố ấy đã không phát triển trên cơ sở mặt bằng quy hoạch, mà đúng hơn là đã tiến hố qua q trình thường diễn ra trong hàng trăm năm bởi vì quá trình chậm chạp ấy đã cho phép liên tục điều chỉnh và làm cho mơi trường tự nhiên thích nghi với các chức năng của thành phố. Bản thân thành phố đó khơng phải là mục tiêu, mà là cơng cụ đã được hình thành do sử dụng.
Kết quả của quá trình này dựa trên cơ sở vơ số kinh nghiệm tích luỹ được là các khơng gian đơ thị mà ngay cả ngày nay cũng tạo được những điều kiện cực kì tốt cho cuộc sống giữa các cơng trình kiến trúc.
Nhiều thành phố lớn nhỏ thời Trung Cổ ngày càng được ái mộ trong thời đương đại với tư cách là những nơi hấp dẫn du lịch, là đối tượng nghiên cứu và là thành phố có nơi cư trú đáng mơ ước vì chúng có những phẩm chất q giá đó.
Vì sự phát triển của mình, các thành phố và các khơng gian thành phố này có những cái được xây dựng để tạo thành bộ phận của một kết cấu mà chỉ ở một ít trường hợp ngoại lệ trong những thành phố từ các thời kì muộn hơn mới có. Hầu như tất cả những thành phố thời Trung Cổ đều minh hoạ điều đó. Khơng chỉ các đường phố và các quảng trường được bố trí với sự quan tâm đến những người đi lại và đứng ngoài trời, mà những người xây dựng thành phố có sự sáng suốt khác thường liên quan đến những nguyên tắc cơ bản cho quy hoạch này.
Quảng trường Campo ở Siena là một ví dụ đẹp khác thường. Thiết kế khơng gian có chú ý đến Mặt Trời và khí hậu, với mặt cắt hình cái bát và những cọc buộc dây, những vòi phun nước tỉ mỉ, quảng trường được bố trí một cách lí tưởng để hoạt động như là chỗ hội họp và nơi sinh hoạt công cộng cho các công dân của thành phố cả lúc bấy giờ và hiện nay.
Từ thời kì Trung Cổ, cơ sở cho quy hoạch thành phố đã hai lần thay đổi cơ bản.
Sự thay đổi cơ bản đầu tiên đã diễn ra trong thời kì Phục hưng và có quan hệ trực tiếp đến sự quá độ từ thành phố phát triển tự do thành thành phố có quy hoạch. Một nhóm đặc biệt những nhà quy hoạch chuyên nghiệp đã đảm đương công việc xây dựng thành phố, đã phát triển lí luận và ý tưởng về các thành phố phải như thế nào.
ThờikìPhụchưng-cáckhíacạnhthịgiác.
Bên trái: Palmanova, Italia (1593). Mặt bằng thành phố theo phối cảnh chim bay.
Ở dưới: Cơng viên Hồng gia thế kỉ XVIII ở Drottningholm, Thuỵ Điển và đường trục trung tâm trong khu mới phát triển nhà ở công cộng tại Đan Mạch, 1965.
Thành phố khơng cịn chỉ là công cụ mà đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật được nghĩ ra, được lĩnh hội và được thực hiện như một vật ngun vẹn. Khơng cịn là các khu giữa những công trình kiến trúc và các chức năng bao hàm trong đó những điểm lí thú, mà đúng hơn là những hiệu quả về khơng gian, những tồ nhà và những nghệ sĩ đã tạo cho chúng quyền ưu tiên.
Trong thời kì này chủ yếu là xuất hiện thành phố và các cơng trình kiến trúc - những khía cạnh thị giác - đã phát triển và biến đổi thành các tiêu chuẩn của thiết kế đô thị và kiến trúc tốt. Đồng thời, những khía cạnh chức năng nào đó đã được xem xét, đặc biệt các vấn đề liên quan đến quốc phịng, giao thơng vận tải, và chính thức hố những chức năng xã hội như duyệt binh và diễu hành. Tuy nhiên khu phát triển mới quan trọng nhất trên cơ sở của quy hoạch có liên quan đến sự biểu lộ thị giác của các thành phố và các cơng trình kiến trúc.
Ở Palmanova - thành phố hình ngơi sao thời Phục hưng do Scamozzi xây dựng năm 1593 ở phía Bắc Venice - tất cả các đường phố đều có cùng một chiều rộng là 14m (46 ft) bất kể mục đích và sự sắp xếp trên mặt bằng thành phố đó. Trái với các thành phố thời Trung Cổ, kích thước đó được xác định chủ yếu không phải căn cứ vào việc sử dụng, mà do sự suy xét khác, thường là có tính chất hình thức. Điều này đúng với trường hợp về Quảng trường Lớn (Piazza Grande) của thành phố vì về hình học nó có diện tích 30000m2
(325000ft2), tức là lớn gấp hơn hai lần so với Quảng trường Campo ở Siena. Vì thế nó hồn tồn khơng thích dụng với tư cách một quảng trường thành phố ở cái thành phố bé nhỏ ấy. Mặt khác, mặt bằng thành phố này là một tác phẩm đồ hoạ lí thú như nhiều mặt bằng đầy cảm hứng Phục hưng khác cũng xác nhận cái được sáng tạo ra trên bản vẽ.
Nhận thức về các khía cạnh thị giác của quy hoạch thành phố trong suốt thời kì này và mĩ học hình thành trong bối cảnh đó đã tạo cơ sở vững chắc cho việc xử lí những vấn đề này về mặt kiến trúc trong các thế kỉ kế tiếp.
Sự phát triển mới quan trọng thứ hai cho nền tảng của quy hoạch đã diễn ra vào khoảng năm 1930 với tên gọi là chủ nghĩa Chức năng. Trong thời kì đó, các khía cạnh chức năng
- tự nhiên của thành phố và cơng trình kiến trúc đã phát triển như một khía cạnh của quy hoạch khơng lệ thuộc vào mĩ học và bổ sung cho mĩ học.
Cơ sở của chủ nghĩa Chức năng chủ yếu là kiến thức y khoa đã phát triển trong suốt những năm 1800 và những Chủ nghĩa
Chức năng - khía cạnh chức năng, chức năng sinh lí.
Trên: Ý nghĩa quan trọng đặc biệt được đặt vào Mặt Trời, ánh sáng và những khơng gian thống đãng và sự loại bỏ những không gian công cộng của thành phố đã được thể hiện rõ trong các minh hoạ kèm theo tuyên ngôn chức năng chủ nghĩa của Le Corbusier.
(“Về Quy hoạch thành phố” [36]). Giữa: Các chung cư mà mỗi căn hộ do người ở trong căn hộ đó làm chủ (Condominiums) ở Toronto, Canada. Dưới: Nhà công cộng ở Berlin.
thập niên đầu của thế kỉ XX. Kiến thức y khoa rộng và mới là cơ sở của nhiều tiêu chuẩn cho kiến trúc thích hợp với sức khoẻ và sinh lí học khoảng năm 1930. Nhà ở phải có ánh sáng, khơng khí, ánh nắng mặt trời, thơng hơi thống gió và cư dân phải được đảm bảo có thể vào các khơng gian rộng mở. Những nhu cầu cho các nhà khơng dính với nhà bên hướng về phía Mặt Trời và khơng như trước đây, hướng ra đường phố, và những nhu cầu cho việc ngăn cách khu ở và khu làm việc đã được thể hiện trong thời kì ấy để đảm bảo những điều kiện sống lành mạnh cho cá nhân và để phân phối những nguồn lợi tự nhiên một cách công bằng hơn.
“Nếu chúng ta yêu cầu các nhà ở có tiêu chuẩn vệ sinh cao như nhau cho tất cả mọi người thì nhu cầu đến thẳng ánh nắng cho tất cả nhà ở sẽ tiến tới cho mỗi khu dân cư mới một tính cách hồn tồn mới. Vì thế cần có nguyên tắc xây dựng thống với những tồ nhà song song được bố trí phù hợp với Mặt Trời: Đơng - Tây trong trường hợp các căn hộ đi xuyên qua, ngược lại là Bắc - Nam. Tuy nhiên kiểu nhà thứ nhất cũng có ưu thế, nó tạo được sự thơng gió ngang và cho nhà ở một bên có nắng thực sự hữu hiệu [2]”. G. Asplund trong Acceptera, 1930.
Những người theo chủ nghĩa Chức năng không đề cập đến khía cạnh tâm lí và khía cạnh xã hội của việc thiết kế các tồ nhà hoặc những không gian công cộng. Đồng thời, rõ ràng thiếu sự quan tâm đối với các khơng gian cơng cộng. Ví dụ như đã khơng xem xét việc thiết kế nhà có thể ảnh hưởng đến hoạt động vui chơi, mơ hình tiếp xúc và khả năng gặp gỡ. Chủ nghĩa Chức năng đã định hướng cho hệ tư tưởng quy hoạch một cách rõ ràng về mặt tự nhiên và vật chất. Một trong những tác động có thể nhận thấy rõ nhất của hệ tư tưởng đó là các đường phố và các quảng trường đã biến khỏi những dự án xây dựng và những thành phố mới.
Trong suốt cả lịch sử cư trú của loài người, các đường phố và quảng trường đã tạo thành những tiêu điểm và những nơi tụ họp, song với sự xuất hiện của chủ nghĩa Chức năng, các đường phố và quảng trường khơng được coi trọng. Thay vào đó, người ta làm những con đường, đường mòn đi bộ và những bãi cỏ vơ tận. Dưới dạng đơn giản hố, mĩ học được diễn đạt trong thời Phục hưng và đã phát triển hơn nữa trong các thế kỉ tiếp theo, và những chủ trương của chủ nghĩa Chức năng về các khía cạnh sinh lí học của quy hoạch là hệ tư tưởng để xây Những đường phố
đã biến mất.
Cơ sở quy hoạch của “chủ nghĩa Hiện đại Hậu kì”.
dựng các thành phố và nhà ở trong các năm từ 1930 và ngay cả đến tận những thập niên cuối của thế kỉ XX. Các khái niệm này đã được xem xét kĩ trong những năm qua và tạo ra cái riêng trong các quy tắc và bộ luật xây dựng. Đó là những khái niệm mà một bộ phận quan trọng các tác phẩm của các kiến trúc sư và những nhà quy hoạch đã tập trung vào trong suốt phần lớn thời kì quan trọng này khi mà đa số các cơng trình xây dựng đã được tiến hành ở những nước công nghiệp.
Trong thập niên 1930 không một ai có thể hình dung nổi sẽ phải sống như thế nào trong các thành phố mới khi những nguyên tắc của cái đẹp và thị hiếu thẩm mĩ của các kiến trúc sư và những lí tưởng theo chủ nghĩa Chức năng về các toà nhà lành mạnh trở thành hiện thực.
Thay thế cho khu nhà ở cũ tối tăm, chật chội và không hợp vệ sinh của cơng nhân thì đương nhiên khu nhà mới nhiều tầng sáng sủa, có nhiều ưu điểm rõ rệt và dễ dàng ủng hộ cho những khu nhà mới.
“Vẻ héo hon lãng mạn” ở các thành phố cũ đã bị chỉ trích mạnh mẽ trong những bản tun ngơn của chủ nghĩa Chức năng.
Tầm quan trọng của môi trường xã hội không được đưa ra thảo luận, bởi người ta khơng nhận ra rằng các cơng trình kiến trúc cũng có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động ngoài trời và do đó có ảnh hưởng lớn đến nhiều khả năng xã hội. Không ai muốn giảm hoặc loại trừ những hoạt động xã hội có giá trị. Trái lại người ta cho rằng các bãi cỏ rộng giữa những cơng trình kiến trúc rõ ràng sẽ là những chỗ dành cho các hoạt động giải trí và cuộc sống xã hội phong phú. Các bản vẽ phối cảnh có rất nhiều hoạt động và cuộc sống. Những nhìn nhận về chức năng của các khơng gian xanh như một nhân tố kết hợp trong những dự án xây dựng đúng đến mức độ nào chưa được thử thách hoặc điều tra.
Mãi đến tận 20 đến 30 năm sau, trong thập niên 60 và 70 của thế kỉ XX - khi các thành phố dân cư nhà ở nhiều tầng theo chủ nghĩa Chức năng đã được xây dựng - đã có thể đánh giá kết quả của cơ sở quy hoạch theo chủ nghĩa Chức năng tự nhiên.
Việc xem xét lại một số những nguyên tắc chung nhất của quy hoạch từ các dự án xây dựng theo chủ nghĩa Chức năng cho thấy hiệu quả của loại quy hoạch này đối với cuộc sống giữa những cơng trình kiến trúc.
Những khả năng xã hội trong quy hoạch hướng về tự nhiên.
Các nhà ở trải rộng ra và xây thưa ra thì bảo đảm được ánh sáng và khơng khí, nhưng cũng là ngun nhân của sự thưa thớt dân cư và sự kiện. Sự phân biệt chức năng giữa nhà ở, nhà máy, nhà cơng cộng, v.v. có thể làm giảm những sự bất lợi về sinh lí học, nhưng nó cũng làm giảm những lợi thế có thể có về sự tiếp xúc gần gũi.
Khoảng cách lớn giữa những người ở, các sự kiện và những chức năng là đặc điểm của các khu vực thành phố mới. Những hệ thống giao thông vận tải dựa vào ôtô đã góp phần làm giảm các hoạt động ngồi trời. Hơn nữa, việc thiết kế không gian một cách vô tình và máy móc cho các dự án xây dựng riêng cũng có tác động gây ấn tượng mạnh cho những hoạt động ngoài trời.
Thuật ngữ “quy hoạch sa mạc” (desert planning”) do Gor- don Cullen đưa vào trong cuốn Townscape (Cảnh quan
thành thị) của ơng [10] đã mơ tả một cách chính xác nhất kết cục của quy hoạch theo chủ nghĩa Chức năng.
Song song với sự phát triển các khu vực nhà nhiều tầng theo chủ nghĩa Chức năng, cũng đã xuất hiện các khu vực nhà thấp, rộng mở cho từng gia đình riêng lẻ được xây dựng Quy hoạch theo chủ
nghĩa Chức năng đối nghịch với cuộc sống giữa những cơng trình kiến trúc. Đường phố ngoại ơ ở Victoria, Australia. Đường phố ngoại ô ở Colorado, Mĩ Các khu vực nhà ở cho từng gia đình - cuộc sống loanh quanh chứ khơng phải giữa những cơng trình kiến trúc.
nhiều ở nhiều nước kể cả vùng Scandinavia, Mĩ, Canada và Australia do số người sử dụng ôtô tăng lên.
Ở các khu vực ấy có những điều kiện đáng mơ ước như vườn hoa cho các hoạt động ngoài trời riêng tư; đồng thời những hoạt động ngoài trời cộng đồng đã giảm xuống đến mức tối thiểu do thiết kế đường phố, giao thông vận tải bằng ôtô và nhất là do sự phân tán của dân cư và các